lediem.netgiới thiệu đến các bạn bài viết Phân tích hình tượng con sông Đà. Có thể nói, hình tượng con sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một trong hai hình tượng rất quan trọng của tác phẩm và thể hiện phong cách sáng tác của tác giả cũng như chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Vậy nên, để các bạn có thể hiểu rõ hơn về hình tượng con sông Đà, lediem.net sẽ hướng dẫn các bạn lập dàn ý và hướng dẫn cách viết hoàn chỉnh phân tích hình tượng con sông Đà. Sau đây mời bạn đọc tham khảo bài viết phân tích hình tượng con sông Đà. 

Phân tích hình tượng con sông Đà

Đề: Phân tích hình tượng con sông Đà

Phân tích hình tượng con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân.

Lập dàn ý: Phân tích hình tượng con sông Đà

Mở bài: Phân tích hình tượng con sông Đà

Nêu được vấn đề nghị luận: hình tượng con sông Đà

Trích ngữ liệu: (nếu có)

Phân tích hình tượng con sông Đà
Phân tích hình tượng con sông Đà

Thân bài: Phân tích hình tượng con sông Đà

Khái quát tác giả, tác phẩm: Phân tích hình tượng con sông Đà

Tác giả Nguyễn Tuân: 

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại là thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo.

Tác phẩm: 

Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ Quốc. Sông Đà gồm có 15 tùy bút.

Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn là cảm hứng chủ đạo của cả tập bút kí là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.

Khái quát về con sông Đà: Phân tích hình tượng con sông Đà

Con sông Đà xét về mặt địa lí có tổng chiều dài là 983 nghìn thước mét và chảy trên đất nước Việt Nam trên 500 cây số, có bảy mươi ba con thác dữ. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp như một cố nhân “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.

Phân tích: Phân tích hình tượng con sông Đà

a) Tính cách hung bạo (vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của Đà giang): Phân tích hình tượng con sông Đà

– Qua diện mạo: Phân tích hình tượng con sông Đà

+ Cảnh đá dựng vách thành

+ Nước sông Đà: 

+ Hút nước :

+ Thác đá: 

+ Trùng vi thạch trận: 

– Qua tâm địa: Phân tích hình tượng con sông Đà

+ Sông Đà như hung thần, như loài thuỷ quái khổng lồ, khôn ngoan, mưu trí mà nham hiểm, hung ác.

+ Sông Đà mang “tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người trên sông nước. 

b) Tính cách trữ tình (vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của Đà giang): Phân tích hình tượng con sông Đà

– Qua dáng vẻ: Phân tích hình tượng con sông Đà

+ Dòng sông như người con gái kiều diễm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”.

+ Sông Đà dịu dàng, trong sáng, gợi cảm và đầy chất thơ, từ mặt nước đến đôi bờ dòng sông.

– Qua tâm hồn: Phân tích hình tượng con sông Đà

Sông Đà trở thành người bạn thân thiết của con người, một “cố nhân” gợi bao niềm thi hứng.

Ý nghĩa của hình tượng sông Đà: Phân tích hình tượng con sông Đà

– Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của tác giả: yêu thiên nhiên Tây Bắc, yêu dòng sông Đà quê hương với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa trữ tình, thơ mộng. 

– Góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

+ Nguyễn Tuân hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt, đẹp phải tới mức tuyệt mĩ, dữ dội phải tới mức khủng khiếp. Sông Đà là một dòng sông độc lạ, đẹp cũng tới mức tuyệt mĩ và dữ dội cũng đến mức khủng khiếp.

+ Nhà văn thường vận dụng tri thức của nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau để tiếp cận và miêu tả đối tượng: Trong Người lái đò Sông Đà, tác giả sử dụng các tri thức về địa lí, lịch sử, quân sự, văn hoá, nghệ thuật – trong đó có văn học, điện ảnh để miêu tả sông Đà.

Phân tích hình tượng con sông Đà
Phân tích hình tượng con sông Đà

Nghệ thuật: Phân tích hình tượng con sông Đà

– Sử dụng nhiều phép so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, liên tưởng tưởng tượng phong phú.

– Kết hợp nhiều yếu tố tri thức điện ảnh, quân sự, lịch sử, địa lí, võ thuật, hội họa, điêu khắc, âm nhạc…

– Nét tài hoa thể hiện qua ngôn ngữ, hình ảnh, câu văn sáng tạo mới mẻ, vốn từ vựng phong phú, ngôn ngữ chính xác.

– Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu : lúc hối hả, gân guốc, khi chậm rãi, trữ tình.

Đánh giá: Phân tích hình tượng con sông Đà

Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp con người lao động trên miền núi Tây Bắc trong thời kì xây dựng cuộc sống mới.

Qua đó, thể hiện cái tôi tài hoa, độc đáo tác giả Nguyễn Tuân.

Kết bài: Phân tích hình tượng con sông Đà

Đúc kết giá trị nội dung và nghệ thuật 

Hướng dẫn viết bài văn hoàn chỉnh: Phân tích hình tượng con sông Đà

Mở bài: Phân tích hình tượng con sông Đà

Nguyễn Tuân – bông hoa cẩm chướng rực rỡ trên văn đàn của văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngược dòng thời gian, ta giở ra những trang “tờ hoa” chất chứa những rung động về vùng đất núi sông Tây Bắc. Dường như vùng đất ấy đã tìm gặp được người tình nhân – người nghệ sĩ tài hoa để được yêu, để được họa và ca ngợi với tác phẩm tùy bút “người lái đò sông Đà”. Dòng thác mãnh liệt của Cách mạng đã đưa một trái tim từng tha thiết, nâng niu những vẻ đẹp của “vang bóng một thời” đến với mảnh đất Tây Bắc xa xôi muôn trùng, để làm nên mối duyên kì ngộ. Sức sống, vẻ đẹp nguyên sơ, trong lành và hoang dại của Tây Bắc được đánh thức, được bất tử hóa dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Và có lẽ, hồn khí của đất và người Tây Bắc với nét duyên quyến rũ đã khơi nên nguồn cảm hứng mãnh liệt nơi trái tim và tâm hồn nhà văn, để ông có được những trang tuyệt bút ấy. Đặc biệt qua tác phẩm “người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng con sông Đà vừa hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình, đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên miền núi Tây Bắc.

Khái quát tác giả, tác phẩm: Phân tích hình tượng con sông Đà

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại là thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo.

Tùy bút “Người lái đò sông Đà” được in trong trong tập Tùy bút Sông Đà (1960). Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nhà văn đã lấy tên con sông Đà – mạch nước nguồn mát, đã tưới tắm, bồi đắp cho đất, cho núi, cho ngàn hoa, … ở Tây Bắc làm nhan đề cho cả tập tùy bút, có lẽ bởi sự gắn bó tự nhiên, ngàn đời của sông và vùng đất “xứ thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng” đã tạo cho ông bao cảm xúc và khơi lên sức sáng tạo mãnh liệt. Sâu xa hơn, cái tên ấy, hình tượng ấy còn là những thông điệp nghệ thuật đầy ý nghĩa.

Khái quát sông Đà: Phân tích hình tượng con sông Đà

Trên mảnh đất hình chữ S thân yêu có biết bao dáng núi, hình sông đã đi vào trang văn và trang thơ của những người nghệ sĩ. Tại sao Nguyễn Tuân không viết về dòng sông Hồng, sông Hương … mà lại lặn lội tới miền xa xôi ngàn trùng kia để viết về dòng sông Đà? Phải chăng dòng sông này có gì khác lạ? Cũng phải thôi, sông Đà, ngay từ đầu đã cuốn hút Nguyễn Tuân bởi sự ngang tàng và độc đáo của nó. Vì thế Nguyễn Tuân đã dành hai lời đề từ để miêu tả về dòng sông này:

“Chúng thủy gia đông tẩu

Đà giang độc bắc lưu”

Con sông Đà xét về mặt địa lí có tổng chiều dài là 983 nghìn thước mét và chảy trên đất nước Việt Nam trên 500 cây số, có bảy mươi ba con thác dữ. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp như một cố nhân “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.

Phân tích Sông Đà hung bạo: Phân tích hình tượng con sông Đà

Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh:

“Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”

(Ca dao Tây Bắc)

Con sông hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó – một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của sông Đà không chỉ được thể hiện qua thác ghềnh mà đó còn là “những đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nguyễn Tuân đã huy động hết tài năng chữ nghĩa, sự liên tưởng độc đáo để truyền tải cho được cái thần thái mãnh liệt của thiên nhiên. Như vậy, cùng một đối tượng miêu tả mà tác giả đã ba lần liên tưởng so sánh bằng cái nhìn thời gian “mặt sông đúng ngọ mới có mặt trời”, cái nhìn không gian “có quãng con nai … Đứng bên này bờ …”, và cảm giác “ngồi trong khoang đò…”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên xiết vô cùng. Cú thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi. Cũng như “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp, tác giả đã làm rõ sức công phá dữ dội, triền miên của sóng, của đá, tạo nên một bản hùng ca nghìn năm của sóng nước sông Đà. Từ tượng hình “cuồn cuộn” kết hợp từ tượng thanh “gùn ghè” đã tô đậm ấn tượng rùng rợn của con người khi đứng trước thiên nhiên. Sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất khi đi qua quãng này.

Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sống, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Ta không thể nào gặp những hút nước như vậy trên những dòng sông ở miền xuôi. Nó báo trước sự nguy hiểm đối với tàu thuyền ở trên sông. Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người!

Tiếng thác nước réo nghe càng ghê sợ hơn “như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng đang gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.  Nguyễn Tuân đã tả âm thanh của con sông từ xa đến gần nhiều cung bậc, gia điệu khác nhau. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thi không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là nghệ thuật bậc thầy!

Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vây thạch trận nguy hiểm.

Ở trùng vây thạch trận thứ nhất, sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh cửa đá trông như sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vây thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chủ động, quyết tâm tiêu diệt con thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tân công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí duy nhất trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có những lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.

Ở trùng vây thứ hai, sông Đà “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng nước hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu, cái mặt xanh lè thất vọng”. Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!

Đến trùng vây thứ ba, sông Đà bố trí “ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền”. Tác giả sử dụng tri thức quân sự, võ thuật, điện ảnh… kết hợp với nghệ thuật nhân hóa khiến cho dá sông Đà như một đội quân dàn bày trận địa trên sông.

 Dưới câu chữ và ngôn từ của nhà văn, con sông vốn là vô tri bỗng trở nên đầy náo động, nó giống như vóc dáng tâm địa của con người xảo quyệt. Qua đó, ta thấy con sông Đà như một loài thủy quái, hung hăn, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà đã được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh, Thủy Tinh:

“Núi cao sông hãy còn dài

Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.

Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy nguy hiểm cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Hình dáng của con sông mềm mại trữ tình. So sánh con sông với mái tóc mềm mại của người phụ nữ, đây là cái nhìn rất riêng của Nguyễn Tuân. Tác giả không dùng “mái tóc” mà dùng từ “áng tóc” để nói rõ hơn cái vẻ đẹp quyến rũ trữ tình. Con sông ở đây mang vẻ đẹp hết sức gợi cảm như dáng vóc của một cô gái kiều diễm, lấy vẻ đẹp của con người để tả vẻ đẹp của con sông.

Nước sông Đà còn thay đổi theo mùa, trong đó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm và sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bâm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì cứ mỗi độ thu về.” Những gam màu tuyệt đẹp “màu xanh ngọc bích” gợi lên sự trong sáng trẻ trung, đầy sức sống, màu đỏ chứa đựng sức sống tiềm tàng bên trong chứa hàm lượng phù sa lớn để bồi đắp đôi bờ.

Phân tích hình tượng con sông Đà
Phân tích hình tượng con sông Đà

Bằng điểm nhìn của một thi nhân, tác giả phát hiện vẻ đẹp trữ tình của con sông: vẻ đpẹ của một mĩ nhân hiền dịu, là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. Con sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng ba Đường thi: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” (Xuôi về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa nở rộ), làm cho người đi rừng vai ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.  Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như đời Trần, đời Lí, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” Vẻ đẹp này khiến người ta liên tưởng dòng sông Đà là dòng chảy của thời gian, của huyền thoại của quá khứ. Cảnh bờ bãi bên sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Thiên nhiên tuy đẹp, nhưng hoang sơ “tịnh không bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi.  

Ý nghĩa hình tượng sông Đà: Phân tích hình tượng con sông Đà

Tóm lại, qua hình tượng con sông Đà, đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của tác giả Nguyễn Tuân. Đó là tình yêu thiên nhiên Tây Bắc, yêu dòng sông Đà quê hương với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa trữ tình, thơ mộng. Đồng thời, qua hình tượng con sông Đà còn góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của ông. Nguyễn Tuân hay hướng tới cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và cảm xúc mãnh liệt, đẹp phải tới mức tuyệt mĩ, dữ dội phải tới mức khủng khiếp. Sông Đà là một dòng sông độc lạ, đẹp cũng tới mức tuyệt mĩ và dữ dội cũng đến mức khủng khiếp. Và để miêu tả thành công con sông Đà, thể hiện trọn vẹn dụng ý của mình, nhà văn đã vận dụng tri thức của nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau để tiếp cận và miêu tả đối tượng con sông Đà như tri thức về địa lí, lịch sử, quân sự, văn hoá, nghệ thuật – trong đó còn có văn học, điện ảnh để miêu tả sông Đà.

Phân tích hình tượng con sông Đà
Phân tích hình tượng con sông Đà

Nghệ thuật: Phân tích hình tượng con sông Đà

Tác giả sử dụng bút pháp tương phản để khám phá gần như trọn vẹn vẻ đẹp của con người sông Đà. Vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực: địa lí, lịch sử, để tái hiện lịch sử của con sông , vận dụng những tri thức quân sự, võ thuật, điện ảnh, điêu khắc để tạo ra tính cách hung bạo của con sông, vận dụng cái nhìn hội họa văn chương tạo ra vẻ đẹp bay bổng trữ tình. Qua cách miêu tả của Nguyễn Tuân, con sông Đà mang một ý nghĩa biểu tượng cho mọi dòng sông của đất nước, quê hương, ca ngợi sông Đà cũng là ca ngợi non sông đất nước Việt Nam với những tiềm năng phong phú. Người đọc cảm nhận được tấm lòng yêu nước thiết tha của Nguyễn Tuân, yêu nước là yêu thiên nhiên Tổ Quốc tươi đẹp, ca ngợi vẻ đẹp của non sông gấm vóc.

Miêu tả, kể chuyện về dòng sông, một vùng đất thuộc miền Tây của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể hiện sự hiểu biết sâu rộng, một tình yêu tha thiết bao la đối với đất nước con người Việt Nam từ đó thể hiện khát vọng niềm tin tưởng vào cuộc sống tươi sáng của đất nước. Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ Quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một món quà tặng vô giá của thiên nhiên,là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy Nguyễn Tuân.

Đánh giá: Phân tích hình tượng con sông Đà

Từng có lời đánh giá rằng: “Đọc sông Đà – thấy trữ lượng cái đẹp – chất vàng mười của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống quả là nhiều vô kể” (Phan Thị Nhài). Quả thật vậy, bằng với tác Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã khẳng định: Thời gian đã làm nên những giới hạn cho mỗi đời người, song những ai sống hết lòng với thời gian của đời mình, người đó coi như đã tìm ra cách để đến được với vĩnh viễn. Nguyễn Tuân đã bước vào cõi vĩnh hằng, nhưng những giá trị mà ông cống hiến cho nghệ thuật còn mãi với thời gian, ghi danh ông vào cõi bất tử của cái Đẹp.

“Người lái đò Sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.

Kết bài: Phân tích hình tượng con sông Đà

Tóm lại, tác phẩm “Người lái đò sông Đà” còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người. Vì vậy, qua hình tượng con sông Đà càng hung bạo, càng độc ác, càng xảo quyệt bao nhiêu càng làm bật lên vẻ đẹp của người lao động bấy nhiêu. Đây chính dụng ý của nhà Nguyễn Tuân khi sáng tạo hình tương con sông Đà. 

lediem.net

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

 

Một số bài viết liên quan Nghị luận xã hội – Ngữ Văn 12

  1. Vai trò của thái độ sống đối với sự thành công của mỗi người
  2. 2 cách mở bài nghị luận xã hội

Một số bài viết liên quan Nghị luận văn học – Ngữ Văn 12 

  1. Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm mùa đông – Ngữ Văn 12
  2. Phân tích tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân – Ngữ Văn 12
  3. Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt Kim Lân – Ngữ Văn 12
  4. Phân tích nhân vật Bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt Kim Lân – Ngữ Văn 12
  5. Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích: “Trong bóng tối, Mị đứng yên lặng … đau dứt từng mảnh thịt” Ngữ Văn 12
  6. Phân tích nhân vật Mị trong đoạn trích: “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên … Nhưng Mị vẫn băng đi” Ngữ Văn 12
  7. Phân tích nhân vật Tràng trong đoạn trích: “Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, … tu sửa lại căn nhà.”
  8. Mở bài kết bài chung cho nghị luận văn học Ngữ Văn 10,11,12
  9. Phân tích nhân vật mị: “lần lần mấy năm qua … đến bao giờ chết thì thôi”.
  10. Phân tích diễn biến tâm trạng mị trong đêm tình mùa xuân 
  11. Nhân vật thị trong vợ nhặt dàn ý (Vợ nhặt, Kim Lân) – Ngữ Văn 12
  12. Nhận định hay về văn học lớp 12
  13. Phân tích hình tượng con sông Đà

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *