Giới thiệu các bạn bài viết phân tích (cảm nhận) đoạn Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân. Bài viết dưới đây giúp các bạn định hướng Phân tích đoạn Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân. Hướng dẫn các bạn cách viết các ý trong bài văn nghị luận về Đất Nước. Sau đây xin mời các bạn cùng tham khảo bài viết dàn ý cảm nhận, phân tích Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân.

Đề: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Phân tích đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm: 

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân 

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nội”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội 

Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy 

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát 

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.” 

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Gợi ý làm bài: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân (Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm)

Mở bài: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

– Nguyễn Khoa Điềm đã để lại trong dòng chảy thi ca Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị. Những vần thơ của ông mang đến cho người đọc cảm xúc được dồn nén và có nhiều liên tưởng phong phú. Qua đoạn trích Đất Nước, tác giả đã khắc họa lên hình ảnh đất nước thật thiêng liêng và gần gũi, chân thực, đó chính là cảm xúc, tình cảm đáng trân trọng của nhà thơ về đất nước.

– Đoạn thơ sau đây là sự thể hiện sâu sắc những suy tư, nhận thức về đất nước của nhà thơ trên cơ sở tư tưởng Đất Nước của Nhân dân: 

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

… …. ….

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Thân bài: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Khái quát tác giả, tác phẩm: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

– Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mĩ cứu nước. Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. 

– “Đất Nước” là một đoạn trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Trị – Thiên.

– Có thể nói, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca – sự nhận thức về nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân. Để từ đó, nhà thơ khẳng định: Nhân dân chính là người – là chủ thể làm nên đất nước. 

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Phân tích, cảm nhận nội dung: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

– Trước hết, câu thơ mở đầu đoạn thơ “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên toàn đoạn trích và cả chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. 

+ Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình chính luận.

+ Đất nước ta có hơn bốn nghìn năm lịch sử, cả nghìn năm dân tộc ta đánh giặc phương Bắc, hơn trăm năm đánh giặc  giặc phương Tây  để giành độc lập tự do: “Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi/ Họ đã sống và chết/ Giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/ Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Vậy nên, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định chắc nịch rằng: “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”. Đất Nước này là Đất Nước của Nhân Dân, của những người dân, những anh hùng vô danh, kiên cường, yêu nước. 

+ Bên cạnh đó, cái độc đáo và mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm còn được thể hiện ở câu thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhân dân là những người đã sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại. Như vậy cũng chính là đã sáng tạo ra đất nước.

Nếu “thần thoại” là những câu chuyện thể hiện trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo của tập thể nhân dân, phản ánh hiện thực cuộc sống của cộng đồng người xưa thì “ca dao” thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân Việt Nam. Có thể nói, ca dao, thần thoại nói riêng và văn học dân gian nói chung phản chiếu nét đẹp tinh thần, tâm hồn và bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất. 

Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lọc trong kho tàng ca dao của người Việt Nam, ba câu ca dao tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Việt Nam, được thể hiện qua các dòng thơ sau: 

“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” 

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

♦ Đó là vẻ đẹp tình yêu say đắm, chân thành, thủy chung của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa với những lời dân ca ngọt ngào: 

“Yêu em từ thuở trong nôi

Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”. 

♦ Đó còn là vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam sống trọng nghĩa tình hơn vật chất: 

 “Cầm vàng mà lội qua sông

 Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”.

♦ Vẻ đẹp của truyền thống anh hùng ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc: 

“Thù này ắt hẳn còn lâu

Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què”.

Đó là truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, bền bỉ của dân tộc ta trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

+ Vẻ đẹp văn hóa sông nước của dân tộc ta còn là vẻ đẹp đặc trưng của người dân Việt Nam:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát 

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.” 

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Những con sông chảy nước ta không biết chúng đến từ đâu, bắt nguồn từ chỗ nào, nhưng khi hòa mình vào lãnh thổ nước ta, lại ngân vang lên còn với đó là điệu hò câu hát. Những điệu hò hùng tráng trên sông Mã; những giai điệu đờn ca tài tử ngọt ngào trên sông Tiền, sông Hậu; những điệu nhạc cổ điển trên sông Hương ngọt ngào của xứ Huế; và những điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, … phản ánh tinh thần lạc quan của dân tộc Việt Nam trong lao động.

Nước Việt Nam ta có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một nét độc đáo, đặc sắc khác nhau. Có thể nói 54 dân tộc của Việt Nam, là 54 dòng chảy văn hóa khác nhau. Đó là vẻ đẹp của sự phong phú và đa dạng của văn hóa Việt Nam. Hơn bốn nghìn năm lịch sử, những con sông văn hóa đó đã vun đắp, bồi đắp phù sa cho dân tộc ta thêm đậm đà. 

=> Từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tính cách, lẽ sống tâm hồn mình.

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đánh giá, nhận xét: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

– Có thể nói, tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và yêu thương. 

– Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam. Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu … đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử. Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, nhận thức ấy đã được nâng lên thành một tư tưởng có tầm cao mới.

Nghệ thuật: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

– Thể thơ tự do như văn xuôi. 

– Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi.

– Giọng điệu thơ biến đổi linh hoạt.                                   

– Dùng đại từ Ta, Em, Anh linh hoạt, chuyển hóa vào nhau. Chất trữ tình thiết tha, chất chính luận sâu sắc.

– Bài thơ có sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.

Kết bài: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

– Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận, ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian… từ những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đoạn thơ đã khắc sâu cho chúng ta những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân.

– Từ đó, đoạn thơ bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đại hôm nay.

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *