Đề: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đáPhân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ” mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée” lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.”

(Trích “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo Dục, Tr.186, 187, SGK) 

Cảm nhận vẻ đẹp sông Đà qua đoạn trích trên; Từ đó, nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích. Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá

Người lái đò sông Đà 1

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá ;Phân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

MỞ BÀI: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá; Phân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

Lê-ô-nít Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung”. Quả thật vậy, một tác phẩm văn học chân chính là sự sáng tạo, độc đáo của tác giả về nội dung lẫn hình thức. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm như thế. Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân khi viết về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm đam mê kiếm tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã viết về sông Đà bằng tất cả yêu thương và những rung cảm tinh tế. Tình cảm ấy vương vấn trên đầu ngọn bút rồi tỏa ra núi sông, cây cỏ trên một vùng non nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng. Đoạn văn: “Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá […] vừa rút lên cái gậy đánh phèn” chính là một trong những bức tranh ở dòng sông Đà được Nguyễn Tuân dệt nên bằng thảm tranh đẹp về lụa ngôn từ. (Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá)

Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá
Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá

THÂN BÀI: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá; Phân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

Khái quát tác giả, tác phẩm: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá; Phân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

Nguyễn Tuân là tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau năm 1945. Ông là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính sáng tạo độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hoá thẩm mỹ, thường miêu tả con người ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại, nhưng đặc biệt thành công ở thể tùy bút. 

“Người lái đò sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Tùy bút này sau đó được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Đoạn trích dẫn ở trên nằm ở phần đầu của tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”. (Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá)

Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá
Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá

Triển khai nội dung phân tích: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá; Phân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

Trước tiên, Nguyễn Tuân đã miêu tả sông Đà hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Nguyễn Tuân đã huy động tất cả các giác quan để mang đến cho người đọc những góc nhìn đa chiều về vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà. Trước hết là những cảm nhận về thị giác. (Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá)

Qua miêu tả, độ cao sâu của đôi bờ sông Đà hiện lên thật khủng khiếp: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”. Cảnh tượng vô cùng sống động, hai bên lòng sông như được xây bằng đá – “đá dựng vách thành”. Bàn về sử dụng vốn từ trong văn học, Nguyễn Tuân từng tâm sự: “Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay (…). Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy, nhưng sử dụng nó sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó”. Từ đó để thấy dùng chữ là rất quan trọng trong lao động văn chương. Miêu tả đá sông Đà, nhà văn dùng chữ “vách thành”, chứ không phải “thành quách” hay “thành vách”. Hai chữ “vách thành” vừa gợi nhớ thành ngữ: “thành cao hào sâu”, vừa gợi ra sự sừng sững, uy nghiêm, sự sắc nhọn, lởm chởm, hiểm trở, cao như thành quách của đá từ mặt sông vọt lên trời cao. Vách đá ấy dựng đứng, cao vòi vọi, khiến ánh nắng mặt trời chỉ lúc đúng ngọ mới có thể chạm tới mặt sông. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng từng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ của sông Hương: “Nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”. So sánh “như thành quách”, sử dụng tính từ “cao” làm sông Hương hiện lên sống động. Còn với sông Đà, tuyệt nhiên không dùng một chữ “cao”, mà ta vẫn cảm nhận được độ cao hun hút của vách đá – đó là tài năng dùng chữ bậc thầy của Nguyễn Tuân.

Sông Đà có quãng hiện lên với độ hẹp khủng khiếp. Nghệ thuật so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng: “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. Động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh với cái “yết hầu” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt. Động từ “chẹt” gợi ra hình ảnh dòng sông có chỗ bị đá bóp nghẹt lại, lòng sông như thắt lại chật chội, nghẹt thở làm dòng chảy bị nghẽn lại tạo nên sự bức bối ngột ngạt như chỗ yết hầu. So sánh với cái yết hầu làm nổi bật độ sâu – tối, chật chội của sông Đà. Phía trên bờ sông độ hẹp cũng rất dữ dội: “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Các từ “nhẹ tay ném”, “vọt” gợi tả thật sinh động sự nhẹ nhàng không tốn sức. Nhẹ tay là đã ném được, chỉ cần “vọt” một cái là đã chễm chệ bên bờ kia.

Không chỉ tả bằng thị giác, Nguyễn Tuân còn diễn tả cảm giác rùng rợn khi đứng trước sông Đà. Đầu tiên là cảm giác lạnh. Nguyễn Tuân tạo ra ấn tượng về sự tương phản của xúc giác với chi tiết “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh”. Sự tương phản giữa cái nóng của mùa hè và cảm giác thấy lạnh gợi ra độ sâu tối tăm, lạnh lẽo, u ám, bí ẩn, như cực tả sự âm u đến giá lạnh của quãng sông chật hẹp ít ánh sáng mặt trời này. “Lạnh” ở đây vừa là cái lạnh do không khí mát mẻ dưới lòng sông mang lại, vừa là cảm giác lạnh gáy, sởn gai ốc vì đi qua đây chẳng khác gì đang đi vào miệng tử thần, đang tự dâng mình cho thủy quái. (Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá)

Cảm giác thứ hai mà sông Đà mang lại đó là cảm giác về độ cao và cảm giác đơn độc, sợ hãi: “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Đó là cảm giác về độ cao khủng khiếp của hai bờ đá, đá cao ngất như “trên cái tầng thứ mấy”. Câu văn tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá. Động từ “tắt phụt” còn gợi ra cảm giác ánh sáng vụt tắt đột ngột, bóng tối vây bủa, bao trùm, con người đơn độc, hụt hẫng, chới với giữa hai vách đá rợn ngợp. “Một sức bút bình thường làm sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế.” (Đỗ Kim Hồi)

Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá
Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá

Sự hung bạo, dữ dội, hiểm trở của Sông Đà còn được thể hiện ở quảng ghềnh Hát Loóng. Ghềnh là nơi ngay dưới chân thác. Phần nổi là đá sắc nhọn, lởm chởm, rêu phủ trơn trượt. Đi trên đá là vô vàn khó khăn nguy hiểm. Phần chìm là nước, không rõ nông sâu, nguy hiểm rình rập. Bởi vậy, ghềnh – thác đều là nơi thử thách ý chí con người. Câu văn mở đầu bằng lời giới thiệu: “lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng”. Điệp từ “lại như” tạo ra cảm giác những hiểm nguy như trùng điệp, tiếp nối, hết hiểm nguy này lại tới hiểm nguy khác chực chờ, rình rập. Bốn chữ “dài hàng cây số” gợi ra độ dài khủng khiếp, khiến con người không khỏi ớn lạnh, bởi vượt qua chiều dài ấy là biết bao nguy hiểm rập rình. “Dài hàng cây số” – ước lượng hóa độ dài, sự không rõ ràng, mơ hồ, càng tô đậm sự hiểm nguy, gây ức chế, mang cảm giác ngột ngạt. Phép điệp động từ “xô” kết hợp nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “xô”: xô đá, xô sóng, xô gió…. Câu văn có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ trùng điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các từ ngữ đã tái hiện một cách sinh động sự dữ dội đến hung bạo của con sông qua hình ảnh nước, sóng gió, và đá của sông Đà. Mặt nước sông Đà quãng này cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau tạo cảm giác ghê rợn, hãi hùng. Tất cả như đang va đập, xô đẩy vào nhau tạo nên những chuỗi âm thanh kinh hãi vang động kéo dài cả hàng cây số. Từ láy “cuồn cuộn” và âm thanh luồng gió “gùn ghè” suốt năm, so sánh “như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” gợi ra chốn hoang dã, thâm sơn cùng cốc. Từ láy “cuồn cuộn” gợi từng luồng gió mạnh, từng đợt, từng luồng thốc mạnh, gào rú. Hai chữ “gùn ghè” gợi âm thanh tiếng gió mài vào đá sắc lạnh, tiếng rít ghê rợn. Âm thanh gùn ghè ấy lúc nào cũng có, nó vang động, gầm rú, tiếng rít rùng rợn, quăng quật, hoang dã cả quãng ghềnh dài gây hoang mang và gieo rắc nỗi sợ hãi cho bao người qua. Đoạn văn kết thúc bằng lời cảnh báo: “Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Lời cảnh báo ấy càng làm sự rùng rợn, hiểm nguy như tăng cấp lên. 

Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá
Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá

Ngoài ra, tác giả Nguyễn Tuân còn miêu tả sự hung bạo của sông Đà ở những cái hút nước, xoáy nước trên sông. Hút nước sông Đà được miêu tả bằng hình ảnh: “Lại như quãng Tà Mường Vát dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống làm móng cầu”. Điệp ngữ “lại như” tiếp tục điệp lại, nguy hiểm lại tiếp nối, chưa buông tha. Từ “bỗng” gợi cảm giác đột ngột, bất ngờ, ám ảnh, hoang mang. So sánh “giếng bê tông” gợi hình ảnh hút nước lớn, đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm. Những người giỏi tưởng tượng chắc chắn sẽ hình dung đó giống như miệng con thủy quái khổng lồ đang hả hốc như chực nuốt chửng bất cứ vật gì trôi qua quãng này. Hình ảnh hút nước còn được tô đậm: “Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Sử dụng động từ mạnh “xoáy tít đáy”, từ láy tượng hình “lừ lừ” gợi ra sự hình ảnh thiên nhiên vô tình, lạnh lùng, ghê rợn. (Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá)

Hút nước hiện lên qua âm thanh. Tác giả nhân cách hóa và so sánh “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”. Phép điệp tăng cấp trong từ láy “ặc ặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi”. Đó là âm thanh rùng rợn, hoang dã, hung dữ gợi tả xoáy nước bạo liệt, hiểm độc như một con quái vật đang trong cơn giận dữ, cuồng loạn, điên loạn sẵn sàng gieo chết chóc cho con người.

Cảm giác mạnh mà hút nước mang lại: “thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Đoạn văn liên tưởng và so sánh độc đáo. Giữa chốn núi rừng hoang sơ này, tác giả đã thổi vào không khí của phố thị khi so sánh chiếc thuyền với ô tô. Tả miệng hút nước mà lại liên tưởng tới “quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”. Cách miêu tả, liên tưởng “quãng đường mượn cạp” gợi ra sự nguy hiểm, sự chông chênh, chới với. Từ đó khẳng định những cái hút nước này chính là mối đe dọa mà bất cứ ai cũng phải sợ, phải thật điêu luyện, thật bình tĩnh. Thậm chí phải nhanh như “ô tô sang số ấn ga” thì mới có thể “thoát chết” khi đi ngang qua quãng ấy. Nhiều động từ: chèo nhanh, lướt, vút qua, phóng qua… gợi tả tốc độ di chuyển mau lẹ để tránh hút nước. Đoạn văn qua đó cũng diễn tả sự nguy hiểm cận kề, mạng sống như “ngàn cân treo sợi tóc”. Hút nước gây nguy hiểm cho thuyền bè: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau thì mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Bè gỗ rừng là rất lớn nhưng lại bất lực trước hút nước sông Đà. Thế mới thấy hút nước mạnh và lớn, hung dữ như thế nào. Các động từ “lôi tuột”, “hút xuống”, “trồng cây chuối”, “vụt biến”, “dìm”, “đi ngầm”, “tan xác” tạo ra sức mạnh hủy diệt, sự bạo liệt, hung ác của xoáy nước. (Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá)

Hiệu ứng điện ảnh đặc sắc nhất trong đoạn trích chính là liên tưởng tới anh thợ quay phim. Nhà văn liên tưởng cảnh anh thợ quay phim “táo tợn”, dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng, rồi cho cả thuyền, cả máy quay vào cái hút Sông Đà. Máy quay thu vào toàn bộ khung cảnh hùng vĩ, tráng lệ: “cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh”. Cảm giác trực tiếp được mang đến qua các từ ngữ miêu tả: “cột nước cao đến vài sải”, “xoay tít”, “quay tít”, “vỡ tan”, “ụp vào” mang đến cảm giác chóng mặt, rợn ngợp, nguy hiểm. Tạo cảm giác gián tiếp người xem “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một chiếc cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn”… Các động từ “lấy gân”, “giữ chặt”, “ghì lấy”, “vứt”, “rút”… tả cảm giác cực đại của sợ hãi. Cách so sánh, ví von, mô tả của tác giả đã gián tiếp gây cảm giác mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ của Sông Đà mà thót tim lại. (Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá)

Có thể nói, những thước phim tư liệu quý giá mà anh thợ quay phim để lại là thành quả của lòng dũng cảm, tính cách ưa mạo hiểm, phiêu lưu, thỏa mãn khám phá. Đây cũng là đặc điểm của chủ nghĩa xê dịch – thứ chủ nghĩa đã chi phối quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. (Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá)

Nghệ thuật: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá; Phân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

Thành công của đoạn trích nói riêng và tùy bút “Người lái đò Sông Đà” nói chung là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Nguyễn Tuân sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo: Trần thuật hấp dẫn, tỉ mỉ, công phu. Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ, bút pháp nhân cách hóa, miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao, kết hợp phong phú yếu tố ngôn ngữ ở nhiều lĩnh vực. Giọng văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của dòng sông Đà hung bạo và trữ tình. 

Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá
Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá

Nhận xét: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá; Phân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

Nguyễn Tuân có vốn hiểu biết uyên bác trên nhiều lĩnh vực: âm nhạc, hội họa, điêu khắc, điện ảnh, võ thuật, quân sự… Nguyễn Tuân luôn quan sát và miêu tả thiên nhiên ở góc độ thẩm mỹ, con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước hay sau Cách mạng Nguyễn Tuân đều viết về cái đẹp, tôn thờ cái đẹp như một chủ nghĩa, một thành trì vững chắc. Văn của Nguyễn Tuân thường thiên về những cảm giác mãnh liệt. Nguyễn Tuân thích cái độc đáo duy nhất, thích tô đậm cái phi thường, thích gây cho người đọc cảm giác choáng ngợp. Tất cả đều có xu hướng vươn tới cái tuyệt vời, tuyệt đích. “Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió bão, của núi cao, rừng thiêng, của thác ghềnh dữ dội” (Gs Nguyễn Đăng Mạnh). Phong cách Nguyễn Tuân còn được biểu hiện đặc sắc qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ông sáng tạo ra nhiều từ mới làm giàu cho kho từ vựng dân tộc. Ông xứng đáng với lời ngợi ca mà Vũ Ngọc Phan ban tặng: “Nguyễn Tuân là kho từ vựng phong phú của Tiếng Việt… văn Nguyễn Tuân không dành cho những người nông nổi thưởng thức”.

Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá
Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá

KẾT BÀI: Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá ; Phân tích hùng vĩ của sông đà đến gậy đánh phèn

Có thể nói đoạn trích nói riêng và tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” nói chung là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân. Nói như nhà văn Anh Đức: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”. Từ bậc thầy ngôn ngữ ấy, vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở của thiên nhiên Tây Bắc cứ thế mà hiện ra đầy ấn tượng nơi cõi trời, với bao la trùng điệp núi non, hoa cỏ, sóng, gió, đá, thác gào… Qua đó, nhà văn bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông gấm vóc Việt Nam. Trang viết của nhà văn khiến ta càng yêu hơn những dòng sông quê hương đất nước trên dải đất hình chữ S bao la hùng vĩ mà cũng thật thơ mộng trữ tình.

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

(Nguồn: Tham khảo) 

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *