Đề: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trong nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đã trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra  giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc loà sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng”, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vì thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng của giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh”, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.”

(Trích “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo Dục, Tr.187, 188, SGK)

Cảm nhận đoạn trích trên; từ đó nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích.

Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

MỞ BÀI: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Lê-ô-nít Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung”. Quả thật vậy, một tác phẩm văn học chân chính là sự sáng tạo, độc đáo của tác giả về nội dung lẫn hình thức. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm như thế. Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân khi viết về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm đam mê kiếm tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã viết về sông Đà bằng tất cả yêu thương và những rung cảm tinh tế. Tình cảm ấy vương vấn trên đầu ngọn bút rồi tỏa ra núi sông, cây cỏ trên một vùng non nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng. Đoạn văn: “Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới […] Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.” chính là một trong những bức tranh ở dòng sông Đà được Nguyễn Tuân dệt nên bằng thảm tranh đẹp về lụa ngôn từ.

Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

THÂN BÀI: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Khái quát tác giả, tác phẩm: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Nguyễn Tuân là tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau năm 1945. Ông là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính sáng tạo độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hoá thẩm mỹ, thường miêu tả con người ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại, nhưng đặc biệt thành công ở thể tùy bút.

“Người lái đò sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Tùy bút này sau đó được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Đoạn trích dẫn ở trên nằm ở phần đầu của tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”.

Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Triển khai nội dung phân tích: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Trí và Dũng của ông khách Sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa một cách đậm nét với ba trùng vi thạnh trận. Trận thủy chiến này là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Trước hết là trùng vi thạch trận một. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này – thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; bọn đá thì giống như những hình nhân bặm trợn, chúng “bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới 

Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”, có lúc chúng “rống lên như tiếng của một n ngàn con trâu mộng… đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét cung đàn trâu da cháy bùng bùng”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy y cán chèo”, chúng “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,… Cách “ùa vào” thể hiện sự liều mạng, lì lợm, lạnh lùng. Đòn “bẻ gãy” là cách đánh khôn ngoan: bẻ gãy cán chèo, cướp khí giới sẽ đẩy đối phương vào thế bị động. Chiến thuật “vào sát nách” là cách đánh áp sát, làm người lái đò mất không gian để chiến đấu, không thể trở tay. Còn đánh đá trái, thúc gối, đội là cách đánh dồn dập – tấn công chỗ hiểm: tấn công bụng hòng chọc thủng thuyền, đánh vào hông hòng làm lật thuyền; đội – khiến thuyền mất thăng bằng. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới 

Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Đây là kinh nghiệm sống quý báu trên chiến trường sông nước, bởi giữ được thăng bằng cho thuyền thì thuyền sẽ đi vào luồng nước đúng. Lúc này sông Đà lại chuyển thế đánh mới, nó bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm khiến “mặt sông tích tắc loà sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Bị đánh bất ngờ, cơn đau khiến ông đò hoa mắt, tóa đom đóm, đau rát như lửa đốt. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử”, đây là cách dùng từ độc đáo gợi tả sự đông đảo, hùng mạnh, nguy hiểm. Tập đoàn này là vô số cửa tử chực chờ hòng mai phục, đón lõng, bắt chết chiếc thuyền. Nó khôn ngoan khi để cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn, vì như thế đường thoát thân của ông khách sông Đà xem như bằng không. Sông Đà tiếp tục dùng thanh thế của mình để tung ra đội quân hùng hậu: “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”. Cách so sánh liên tưởng độc đáo. Dòng thác mà ví với “hùm beo” vốn là loài thú dữ dùng từ tả sức mạnh “hồng hộc”, dòng sông trở thành “sông đá” khiến dòng chảy như càng tăng thêm sự hung hãn, bạo liệt, dữ dội, cuồng nộ.

So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm trên chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Chữ “nắm chắc”, chữ “thuộc” thể hiện thế chủ động. Các từ “thần sông”, “thần đá” cho thấy được sức mạnh tự nhiên khủng khiếp. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, thể hiện ý chí, quyết tâm chiến đấu đến cùng, không bỏ cuộc. vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới 

Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng gọn. Như một vận động viên đua ngựa, “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng”. Sông Đà lúc này như ngựa bất kham nhưng ông đò vẫn “ghì”, vẫn “bám chặt”, rồi bất ngờ ông tăng tốc “phóng nhanh”, “lái miết về phía cửa đá” tốc độ di chuyển mau lẹ, nhịp độ dồn dập. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Nó xua “bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử”. Ông đò đã cảnh giác sẵn và biết được trận địa mai phục nên ông đã chuyển cách đánh, “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Phép điệp trong câu văn và hàng loạt dấu phẩy làm nhịp điệu trận đánh trở nên dồn dập. Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng lái, tránh, rảo, đè, chặt… Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng song toàn. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới 

Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên; còn ông giống như một cung thủ. Trận này phải dùng chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”. Ông đã nhanh chóng “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… Phối hợp phép điệp: “cánh mở, cánh khép”, “cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng”, âm thanh “vút vút” tạo nên sự thần tốc trong cách đánh. Sự trùng điệp của ngôn từ giúp người đọc hình dung thật rõ nét trận chiến sinh tử. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Cuối cùng cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Bốn chữ “thế là hết thác” giống như một tiếng reo vui, một tràng pháo tay tán thưởng tài nghệ có một không hai của người lái đò. Nghệ thuật lái đò vượt thác leo ghềnh đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Ông lái đò là một người nghệ sĩ trên mặt trận sông nước; một phong thái ung dung, tự tại giữa đời thường. Đoạn văn khép lại trong hình ảnh những con người lao động đưa thuyền tạm nghỉ trong hang đá. Hang đá mát lạnh, bình yên, những ống cơm lam thơm nồng ấm nóng thay cho cảm giác hiểm nguy vừa đi qua. Đêm ấy họ không bàn đến chiến thắng vừa qua mà bàn đến cá dầm xanh, cá anh vũ. Qua đó để thấy, ông lái đò là người lao động nhưng lại mang cốt cách của một tâm hồn nghệ sĩ. Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh ông là một con người phi thường, tài hoa. Giữa đời thường, ông là một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy tướng dữ quân tợn nhưng ông lại không hề tự hào về chiến thắng vừa qua, bởi đó là cuộc sống của ông trên chiến trường sông nước, là một phần đời của ông. Ông chính là hình tượng con người lao động trong thời đại mới, là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn.

Đánh giá: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường. xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhà văn không tả sông Đà ở thế tĩnh mà ở thế động, chuyển động náo động. nên sự hung bạo hiện thành hình khối, gào thét trong muôn vàn âm thanh. Người đọc cảm nhận được sắc diện, tâm địa của hình thù đá vô trị như một thủy quái khổng lồ, nham hiểm, dữ tợn, từ ngàn năm vẫn luôn gây sự với con người. Còn con người thì trí dũng tài hoa, phi thường, chiến thắng thiên nhiên và vượt qua bao thử thách.

Nghệ thuật: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Thành công của đoạn trích nói riêng và tùy bút “Người lái đò Sông Đà” nói chung là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Nguyễn Tuân sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo: Trần thuật hấp dẫn, tỉ mỉ, công phu. Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ, bút pháp nhân cách hóa, miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao, kết hợp phong phú yếu tố ngôn ngữ ở nhiều lĩnh vực. Giọng văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của dòng sông Đà hung bạo và trữ tình. 

Nhận xét: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

 Nguyễn Tuân có vốn hiểu biết uyên bác trên nhiều lĩnh vực: âm nhạc, hội họa, điêu khắc, điện ảnh, võ thuật, quân sự… Nguyễn Tuân luôn quan sát và miêu tả thiên nhiên ở góc độ thẩm mỹ, con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước hay sau Cách mạng Nguyễn Tuân đều viết về cái đẹp, tôn thờ cái đẹp như một chủ nghĩa, một thành trì vững chắc. Văn của Nguyễn Tuân thường thiên về những cảm giác mãnh liệt. Nguyễn Tuân thích cái độc đáo duy nhất, thích tô đậm cái phi thường, thích gây cho người đọc cảm giác choáng ngợp. Tất cả đều có xu hướng vươn tới cái tuyệt vời, tuyệt đích. “Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió bão, của núi cao, rừng thiêng, của thác ghềnh dữ dội” (Gs Nguyễn Đăng Mạnh). Phong cách Nguyễn Tuân còn được biểu hiện đặc sắc qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ông sáng tạo ra nhiều từ mới làm giàu cho kho từ vựng dân tộc. Ông xứng đáng với lời ngợi ca mà Vũ Ngọc Phan ban tặng: “Nguyễn Tuân là kho từ vựng phong phú của Tiếng Việt… văn Nguyễn Tuân không dành cho những người nông nổi thưởng thức”.

KẾT BÀI: Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới

Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường, xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. “Người xưa vẫn coi “cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lí tưởng sống anh hùng. Thì ông lái đò sông Đà này, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng đấy” (Đỗ Kim Hồi).

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

(Nguồn: Tham khảo) 

lediem.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *