Giới thiệu đến các bạn bài viết Soạn bài kiểm tra: Chuyện xiêng miệng ; trắc nghiệm chuyện xiêng miệng ; đọc hiểu chuyện xiêng miệng ; chuyện xiêng miệng trắc nghiệm ; chuyện xiêng miệng đọc hiểu (17 CÂU HỎI, Đề kiểm tra). Ở đây, chúng tôi sẽ cùng các bạn, tìm hiểu các câu hỏi trắc nghiệm kết hợp với tự luận. Đề được biên soạn, sưu tầm theo hướng mới – chương trình 2018. Mời các bạn cùng tham khảo.
Đề:
Đọc hiểu: 6,0 điểm chuyện xiêng miệng ; trắc nghiệm chuyện xiêng miệng ; đọc hiểu chuyện xiêng miệng ; chuyện xiêng miệng trắc nghiệm ; chuyện xiêng miệng đọc hiểu
Đọc văn bản sau: chuyện xiêng miệng ; trắc nghiệm chuyện xiêng miệng ; đọc hiểu chuyện xiêng miệng ; chuyện xiêng miệng trắc nghiệm ; chuyện xiêng miệng đọc hiểu
CHUYỆN XIÊNG MIỆNG
(Truyện cười dân gian Lào)
Người Lào ai cũng biết chuyện Xiêng Miệng. Xiêng Miệng thông minh, hay chơi khăm bọn chúa đất nên chúng vẫn tìm cách buộc tội anh.
Một hôm, chúa nắm chặt một con chim nhỏ trong tay, cho gọi Xiêng Miệng đến hỏi:
– Ngươi bảo ta để con chim này sống hay bóp chết nó?
Xiêng Miệng đang đứng cạnh cái cột liền trèo lên lưng chừng, rồi hỏi lại:
– Vậy thì nhà chúa bảo bây giờ tôi sẽ trèo lên nữa hay tụt xuống? Chúa đất biết mình không thể thắng Xiêng Miệng trong cuộc đó, nên đành để Xiêng Miệng về.
Hôm sau, chúa đất đến gặp Xiêng Miệng đang tắm dưới ao, liền hỏi:
– Xiêng Miệng, ta đố nhà ngươi làm cho ta xuống ao được đấy!
Xiêng Miệng nhảy lên bờ, gãi đầu, gãi tai nói:
– Hiện giờ nhà chúa đang ăn mặc thế kia mà lại đố nhà chúa cởi cả ra để xuống ao thì khó quá. Nếu nhà chúa ở dưới nước mà đố nhà chúa lên bờ thì rất dễ, tôi làm được ngay.
Chúa đất vội vàng cởi phăng quần áo, nhảy ùm xuống ao, định bắt Xiêng Miệng đố mình lên bờ. Nhưng lão chưa kịp nói thì Xiêng Miệng đã cười khà khà, chế giễu:
– Đấy nhé, nhà chúa xuống ao rồi! Thế là thua cuộc nhé!
Tiếp đó, Xiêng Miệng thản nhiên lấy quần áo của chúa đất làm ra bộ mặc vào. Chúa đất tưởng Xiêng Miệng định cướp quần áo liền vội vã lên bờ. Xiêng Miệng ôm quần áo, vừa đi giật lùi vừa nói:
– Đấy, thể là nhà chúa lại thua cuộc lần thứ hai nhé! Ban nãy tôi đã làm cho nhà chúa xuống ao, bây giờ lại buộc nhà chúa phải lên bờ. Nhà chúa đã chịu thua chưa nào?
Xiêng Miệng vừa nói vừa chạy, cố nhử cho chúa đất phải chạy theo. Dân chúng thấy chúa đất trần như nhộng đuổi theo Xiêng Miệng liền đổ ra xem. Ai nấy đều bò lăn ra cười.
Cuối cùng chúa đất đành phải chịu thua, Xiêng Miệng mới trả lại quần áo…
(truyendangian.com)
Lựa chọn đáp án đúng: chuyện xiêng miệng ; trắc nghiệm chuyện xiêng miệng ; đọc hiểu chuyện xiêng miệng ; chuyện xiêng miệng trắc nghiệm ; chuyện xiêng miệng đọc hiểu
Câu 1.
Truyện Xiêng Miệng kể về những người:
- Đứa trẻ thông minh.
- Bọn quan lại ngu ngốc.
- Người tài giải đố.
- Tình huống oái ăm.
Câu 2.
Nhân vật nào sau đây là đối tượng gây cười trong truyện Xiêng Miệng?
- Xiêng Miệng.
- Chúa đất.
- Thầy lý.
- Thầy đồ.
Câu 3.
Sự việc nào sau đây không có trong truyện?
- Hỏi về con chim.
- Làm cho xuống ao.
- Phạt Xiêng Miệng
- Chúa ở trần đuổi theo.
Câu 4.
Sự việc nào là trung tâm làm bật lên tiếng cười?
- Xiêng Miệng nhảy lên bờ.
- Chúa nhảy ùm xuống ao.
- Chúa ở trần đuổi theo.
- Xiêng Miệng vừa nói vừa chạy.
Câu 5.
Vì sao Xiêng Miệng khiến chúa đất biết mình không thể thắng trong cuộc đố đầu tiên và đành để Xiêng Miệng về?
- Vì Xiêng Miệng trèo lên cây.
- Vì Xiêng Miệng tương kế tựu kế.
- Vì Xiêng Miệng dồn chúa vào thế bí.
- Vì chúa cố tình tha cho Xiêng Miệng.
Câu 6.
Cách Xiêng Miệng trèo lên cây hỏi lại chúa đất: “Vậy thì nhà chúa bảo bây giờ tôi sẽ trèo lên nữa hay tụt xuống”? là tương kế, tựu kế đúng hay sai?
- Đúng.
- Sai.
Câu 7.
“Xiêng Miệng nhảy lên bờ, gãi đầu, gãi tai nói: Hiện giờ nhà chúa đang ăn mặc thế kia mà lại đố nhà chúa cởi cả ra để xuống ao thì khó quá” để làm gì?
- Thú thực sự bất lực của mình.
- Công nhận chúa thông minh.
- Đánh lạc hướng, đưa chúa vào tròng.
- Hành động câu giờ để chờ thời.
Câu 8.
Việc “Chúa đất vội vàng cởi phăng quần áo, nhảy ùm xuống ao, định bắt Xiêng Miệng đố mình lên bờ” chứng tỏ:
- Chúa mắc mưu Xiêng Miệng.
- Chúa nhanh hơn Xiêng Miệng.
- Chúa nghĩ ra kế mới.
- Chúa quyết tỉ thí với Xiêng Miệng.
Câu 9.
Dòng nào nói lên phương pháp gây cười trong truyện Xiêng Miệng ?
- Phóng đại sự việc; mâu thuẫn trái với tự nhiên.
- Cử chỉ gây cười, hoàn cảnh gây cười.
- Hoàn cảnh gây cười.
- Lời nói gây cười.
Câu 10.
Hình ảnh ở đầu truyện minh họa làm nổi bật sự việc nào?
- Đối thoại thông minh của Xiêng Miệng với chúa.
- Chúa bị lừa xuống ao, Xiêng Miệng ở trên bờ.
- Sự ngu ngốc của chúa, đắc ý của Xiêng Miệng.
- Chúa đang chờ Xiêng Miệng cứu.
Câu 11.
Dòng nào nói lên cách khắc họa nhân vật trong truyện Xiêng Miệng?
- Khắc họa lai lịch, diện mạo.
- Khắc họa qua đối thoại cử chỉ, hành động, trí tuệ.
- Khắc họa qua đối thoại, nội tâm.
- Khắc họa qua một chặng đường đời.
Câu 12.
Đối tượng phê phán của truyện Xiêng Miệng là:
- Kẻ giàu có ngu ngốc, thích ta đây.
- Những kẻ ngu ngốc, háo danh.
- Kẻ keo kiệt, tham lam.
- Kẻ nhà giàu thích được xu nịnh.
Trả lời câu hỏi sau: chuyện xiêng miệng ; trắc nghiệm chuyện xiêng miệng ; đọc hiểu chuyện xiêng miệng ; chuyện xiêng miệng trắc nghiệm ; chuyện xiêng miệng đọc hiểu
Câu 13.
Có thể xếp Xiêng Miệng thuộc loại nhân vật thông minh trong truyện dân gian được không? Vì sao?
Câu 15.
Hãy nhận xét về cách kết thúc của truyện? Em tưởng tượng điều gì xảy ra kế tiếp sau kết thúc ấy?
Câu 16.
Theo em, chi tiết, sự việc nào khiến em (độc giả) hả hê nhất? Hãy viết đôi dòng về điều đó.
Câu 17.
Em có đồng ý với nhận định sau đây không? Vì sao?
“Truyện Xiêng Miệng khiến đối tượng của tiếng cười rơi vào tình trạng dở khóc dở cười”.
Câu 18.
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi a, b.
EM BÉ THÔNG MINH
Ngày xưa có một ông vua sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu ông cũng ra những câu đố oái oăm để hỏi mọi người, nhưng tuy mất nhiều công mà chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng: cha đánh trâu cày, con đập đất. Ông bèn dừng ngựa lại hỏi:
– Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường? Người cha đứng ngẩn người ra chưa biết trả lời thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe nó hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Ông thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công, bèn hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe nói, vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết đích xác hơn nữa, vua sai thử lại. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng và lo lắng không hiểu thế là thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới, mọi người đều tin là tai vạ. Việc đến tai em bé con nhà thợ cày. Em liền bảo cha:
– Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.
– Đã ăn thì còn lo liệu thế nào? Đừng có làm dại mà mất đầu đó con ạ!
Nhưng đứa con quả quyết:
– Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.
Người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói vẫn còn ngờ vực, bắt cha con phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, con bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu vào, phán hỏi:
– Thằng bé kia, có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?
– Tâu đức vua em bé đáp – mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:
– Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Em bé bỗng tươi tỉnh:
– Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
– Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần chịu chú bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
– Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ con ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, yêu cầu xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc. Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan nhìn nhau. Không trả lời được câu đố oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần đều vò đầu suy nghĩ. Có người dùng miệng hút. Có người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu v. v… Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu, bao nhiêu ông Trạng và các nhà thông thái triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán để có thì giờ đi hỏi ý kiến em bé thông minh nọ.
Khi một viên quan mang dụ chỉ của vua đến thì em còn đùa nghịch ở sau nhà. Và khi nghe nói xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu:
Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…
Rồi bảo:
– Cứ theo cách đó là xâu được ngay!
Viên quan sung sướng, lật đật trở về tâu vua. Vua và các quan triều thần nghe nói thì mừng lắm. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.
Rồi đó, vua phong cho em bé làm Trạng nguyên. Vua lại sai xây dinh thự ở một bên hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.
(Truyện cười dân gian Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin, 2011)
- Tìm nét tương đồng của truyện Em bé thông minh với truyện Xiêng Miệng. Từ đó nêu nét tương đồng về văn hóa của 2 đất nước.
- Nét khác biệt nhất ở hai tác phẩm là gì? Vì sao có nét khác biệt ấy?
Gợi ý trả lời: chuyện xiêng miệng ; trắc nghiệm chuyện xiêng miệng ; đọc hiểu chuyện xiêng miệng ; chuyện xiêng miệng trắc nghiệm ; chuyện xiêng miệng đọc hiểu
Lựa chọn đáp án đúng: chuyện xiêng miệng ; trắc nghiệm chuyện xiêng miệng ; đọc hiểu chuyện xiêng miệng ; chuyện xiêng miệng trắc nghiệm ; chuyện xiêng miệng đọc hiểu
Câu 1. A Đứa trẻ thông minh.
Câu 2. B Chúa đất.
Câu 3. C Phạt Xiêng Miệng
Câu 4. C Chúa ở trần đuổi theo.
Câu 5. B Vì Xiêng Miệng tương kế tựu kế.
Câu 6. B Sai.
Câu 7. C Đánh lạc hướng, đưa chúa vào tròng.
Câu 8. A Chúa mắc mưu Xiêng Miệng.
Câu 9. B Cử chỉ gây cười, hoàn cảnh gây cười.
Câu 10. C Sự ngu ngốc của chúa, đắc ý của Xiêng Miệng.
Câu 11. B Khắc họa qua đối thoại cử chỉ, hành động, trí tuệ.
Câu 12. A Kẻ giàu có ngu ngốc, thích ta đây.
Trả lời câu hỏi sau: chuyện xiêng miệng ; trắc nghiệm chuyện xiêng miệng ; đọc hiểu chuyện xiêng miệng ; chuyện xiêng miệng trắc nghiệm ; chuyện xiêng miệng đọc hiểu
Câu 13.
– Có thể xếp Xiêng Miệng thuộc nhân vật thông minh.
– Vì nhân vật thông minh – Xiêng Miệng rất láu lỉnh thường nắm giữ thế chủ động trong việc tạo ra những mẹo lừa gài bẫy nhân vật bị chế giễu. Có thể đó là hành động lừa gạt, nói dối khiến đối thủ bẽ mặt hoặc chịu thua (chúa đất trong truyện trên bị dồn vào 2 tình thế bi đát).
Câu 14.
– Về kết thúc:
+ Khá bất ngờ, dù các chi tiết trước đó không quá gay cấn.
+ Cảnh tượng kết thúc vô cùng hài hước, làm bật lên tiếng cười hả hê: người trung tuổi ở trần đuổi theo người trẻ ôm quần áo chạy trước (vừa chạy vừa la).
– Học sinh chủ động thể hiện trí tưởng tượng bay bổng của mình (yêu cầu logic với sự việc, vị thế của nhân vật trong truyện).
Câu 15.
– Tùy học sinh lựa chọn (yếu tố gây cười, tiếng cười phụ thuộc vào sở thích, tính cách của từng cá nhân).
– Gợi ý: các chi tiết khi chúa đất không thể làm gì được Xiêng Miệng/bị Xiêng Miệng đáp trả sâu cay hơn.
Câu 16.
– Học sinh tự trả lời
– Gợi ý: đúng (học sinh làm rõ tình trạng dở cười, tình trạng dở khóc).
Câu 17.
a.
– Có nhân vật thông minh là người nhỏ tuổi, trẻ tuổi.
– Nét tương đông về văn hóa: đề cao trí tuệ của con người.
b.
– Truyện Xiêng Miệng gây cười và đả kích, phê phán kẻ giàu có ngu dốt, hay lên mặt; Em bé thông minh không có yếu tố hài, ca ngợi trí tuệ con người.
– Xiêng Miệng là truyện cười; Em bé thông minh là truyện cổ tích.