lediem.net giới thiệu các bạn bài viết: Cơ sở thực tế của bản Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh) (Ngữ văn 12). Hướng dẫn các bạn triển khai các luận điểm trong bài văn nghị luận về Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh. Sau đây xin mời các bạn cùng tham khảo bài viết nhé!. 

Đề: cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

Cảm nhận của anh chị về đoạn văn bản sau:

“Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hãng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích : Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà.”

(Tuyên Ngôn Độc Lập, Hồ Chí Minh, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục)

cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập
cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

Gợi ý làm bài: cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

Mở bài: cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

Dòng máu lạc hồng qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước vẫn tuôn trào trong huyết quản của mỗi người dân Việt Nam. Một dân tộc mang trong mình dòng máu anh hùng quyết chiến sinh tử với bè lũ cướp nước, quyết diệt tận vong lũ bè bán nước. Hỡi ôi! Một dân tộc lừng lẫy chiến công vang dội mang tên Việt Nam. Mỗi một người dân đều là máu thịt của đất nước,họ xứng đáng được hưởng quyền tự do,bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc. Bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh không chỉ là bản cáo trạng về tội ác của kẻ thù xâm lược mà còn chính là một lời khẳng định chắc chắn về quyền tự do,tự chủ của dân tộc. Điều đó, được thể hiện cụ thể qua đoạn văn sau: 

“Thế mà hơn 80 năm …. Dân chủ Cộng hòa”

Thân bài     cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

1. Khái quát về tác giả, tác phẩm.  cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

* Tác giả: 

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh (1890 – 1969) sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người là nhà lãnh tụ tài ba, anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là nhà thơ, nhà văn, nhà văn hoá lớn của dân tộc Việt Nam. Tuy không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương (Ngâm thơ ta vốn không ham) nhưng Người đã nhận ra rằng văn chương là một loại vũ khí sắc bén đầy lợi hại để đấu tranh cách mạng và cũng là phương tiện rất hiệu nghiệm để động viên chiến sĩ, đồng bào.” Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, “Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết xung phong.” Chính vì vậy, tất cả sáng tác văn học của Bác đều trở thành một bộ phận trong sự nghiệp đấu tranh cho từng giai đoạn cách mạng ở nước ta.

* Tác phẩm: cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

Ngày 26 – 8 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới al ve to Hà Nội. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người đã soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2 – 9 – 1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng vạn đồng bào, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam mới.

Tuyên ngôn Độc lập ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách: Nền độc lập vừa mới giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta. Tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. 

2. Cảm nhận đoạn trích cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

2.1 Nội dung cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

Trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh, Người còn thể hiện tài năng lập luận bằng nghệ thuật liên kết chặt chẽ giữa các phần. Kết thúc phần một, Bác chuyển sang phần hai bằng hai chữ “thế mà” như để báo trước cho người yêu văn rằng tất cả những hành động đồi bại của thực dân Pháp ở Việt Nam ngót một thế kỉ qua trái hoàn toàn với những lời lẽ trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Bác đã dẫn ra ở phần một.

Đến phần hai của bản tuyên ngôn, Bác đã khẳng định quyền độc lập dân tộc trên cơ sở tình hình thực tiễn ở Việt Nam. Đây được xem như một bản cáo trạng đanh thép để kết tội tội ác của thực dân Pháp với hai tội trạng: Một là xâm lược Việt Nam, gây bao đau khổ cho đồng bào Việt Nam; hai là tội bán nước ta cho Phát xít Nhật. Bằng lời lẽ sắc sảo của mình, bản Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: Thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kỳ, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc thuốc phiện, rượu cồn, bóc lột vơ vét đến tận xương tủy, cuối cùng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai mươi triệu đồng bào bị chết đói”. Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương ư? Bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì “trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. 

Đầu tiên đó là tội xâm lược Việt Nam. Bác dùng nghệ thuật lập luận chủ yếu là nêu dẫn chứng làm sáng tỏ vấn đề, những dẫn chứng hùng hồn từ thực tế lịch sử để chứng minh. Như ta đã biết, Pháp bắt đầu đặt chân xâm lược Việt Nam từ năm 1858 với sự kiện nổ súng ở bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Sau khi bình định được nước ta, chúng tiến hành khai thác thuộc địa để vơ vét tài nguyên thiên nhiên vật liệu của ta về làm giàu cho mẫu quốc. Tố cáo tội ác này, Hồ Chí Minh đã tố cáo trên nhiều phương diện, lĩnh vực.

Về chính trị, Pháp đã không cho nhân dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào. Chúng ràng buộc dư luận. Chúng thực hiện luật pháp dã man. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu. Chúng dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta ra làm ba kì với ba hình thức cai trị khác nhau để dân ta không có khối đại đoàn kết dân tộc. Đó thực tế là chế độ chính trị nô dịch của thực dân chứ đâu phải chính trị bảo hộ mẫu quốc mà Pháp rêu rao trên trường quốc tế.

Về kinh tế, chúng dùng chính sách cướp không ruộng đất của nhân dân ta để lập đồn điền và các hầm mỏ. Chúng đặt ra nhiều sưu cao thuế nặng đánh vào nhiều giai tầng của ta khiến họ không ngóc đầu lên được, nhất là dân cày và dân buôn. Chúng đánh những thứ thuế vô lí như thuế thân, thuế muối, thuế đò, thậm chí đánh ngay cả vào người đã chết như nhà văn Ngô Tất Tố đã viết trong tiểu thuyết Tắt đèn của mình. Chúng thiết lập hàng rào thuế quan vô cùng nghiêm ngặt để độc chiếm thị trường Việt Nam, không cho hàng thế vào Việt Nam hay hàng Việt Nam ra nước ngoài tức là chúng giữ độc quyền xuất cảng và nhập cảng. Bộ mặt xâm lược, bóc lột, vơ vét tài nguyên của thực dân Pháp đã hoàn toàn lật tẩy. 

Về văn hóa xã hội, chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Nếu có trường lớp thì chúng cũng đào tạo văn hóa Pháp để ta bị phụ thuộc, chúng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa. Chúng dùng chính sách nhồi sọ để dân ta ngu, chúng dễ bề cai trị. Đồng thời chúng còn đầu độc dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện để dân ta bị suy kiệt về nòi giống…Các trường học thì vô cùng ít ỏi nhưng những cơ sở hàng quán tư nhân để buôn bán rượu cồn và thuốc phiện được chúng cho mở rất nhiều vừa là để thu lợi nhuận, vừa là để đầu độc dân ta, làm cho nòi giống ta không chỉ suy yếu về thể trạng mà còn suy nhược về tinh thần để quên đi nhiệm vụ cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm. Với tất cả những chính sách kể trên của thực dân Pháp kết hợp với chính sách của Phát xít Nhật sau này trong vòng năm năm trời bắt dân ta nhổ lúa trồng đay trồng thầu dầu mà cuối năm 1944 đầu năm 1945, từ Quảng Trị ra Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta đã chết đói. Với cách tố cáo này, Hồ Chí Minh đã khẳng định thực dân Pháp không phải là kẻ công “khai hóa” ta như luận điệu chúng đã nói mà là kẻ xâm lược nước ta gây bao đau khổ cho đồng bào Việt Nam như Phan Bội Châu đã từng viết:

“Hỡi anh chị em Nam Việt

Nông nỗi này ai biết cho chăng

Đã non Tám chục năm trời

Làm thân trâu ngựa cho loài chó dê…

… Văn minh chi? Khai hóa chi chi?”

Như vậy ở đây, chiêu bài đầu tiên của Pháp đã bị Hồ Chí Minh xé toang trên trường quốc tế. Khi Người tố cáo tội ác của thực dân Pháp, lời văn của tuyên ngôn giần giật lửa căm hờn. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận định rằng “Ở mười bốn câu văn, Bác đã sử dụng tới mười ba chữ “quyền”, câu nào cũng được mở đầu bằng chữ chúng, nặng như búa tạ. Đằng sau chữ chúng là hàng loạt tội ác kẻ thù dồn đổ xuống đầu chữ “ta”. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ xưng hô và nghệ thuật liệt kê dày đặc, Hồ Chí Minh đã cho thấy tội ác chồng chất, cao như núi, dài như sông của bọn thực dân mà như khi xưa Nguyễn Trãi đã từng dùng hình ảnh:

“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Nước Đông hải không rửa sạch mùi”.

Đó là bản cáo trạng đanh thép luận tội bọn thực dân và vạch rõ bộ mặt thật của chúng trên trường quốc tế. 

cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập
cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút chính luận sắc sảo của Hồ Chí Minh đã vạch trần tội ác thứ hai của bọn thực dân là bán Việt Nam cho phát xít Nhật. Bằng thực tế lịch sử chứng minh: Mùa thu năm 1940, Phát xít Nhật tràn qua biên giới Việt – Trung vào Việt Nam để mở rộng căn cứ đánh Đồng minh. Bất thình lình, Pháp mở cửa nước ta để rước Nhật. Từ đó dân ta phải sống cảnh một cổ hai tròng. Trong vòng 5 năm trời, từ mùa thu năm 1940 đến mùa thu năm 1945, thực dân Pháp không những đã không bảo hộ nước ta mà còn 2 lần nhục nhã quỳ gối mở cửa nước ta rước Nhật, bán ta cho Nhật. Sử dụng những ngôn từ thật đắt giá “quỳ gối, rước Nhật vào” đã cho thấy thái độ quá hèn hạ của bọn thực dân. Vậy mà chúng còn đòi kể công “bảo hộ” Việt Nam. Không chỉ có vậy, đã rất nhiều lần Việt Minh kêu gọi thực dân Pháp đứng về phía Việt Minh để chống Nhật. Nếu như trước khi Nhật chưa vào Đông Dương thì ta và Pháp ở hai chiến tuyến, không đội trời chung. Nhưng trước thảm họa phát xít, toàn nhân loại đã liên minh, đoàn kết, đều là phe Đồng Minh chống Phát xít. Ấy vậy mà, bọn chúng chẳng những không nghe mà còn chém giết những người yêu nước thương nòi của ta, dìm tám cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu. Với nghệ thuật ẩn dụ, bằng một câu văn đầy hình ảnh mà tội ác của thực dân Pháp bị vạch trần. Ngoài ra, tính biểu tượng còn được thể hiện khi Người tố cáo tội ác xâm lược của thực dân Pháp với những câu văn như: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu”. Với cách viết này, bộ mặt quỷ dữ khát máu của kẻ thù đã bị Hồ Chí Minh phóng lên đến cực điểm. Khi tố cáo tội ác bán Việt Nam cho Nhật, Bác viết “Trong vòng năm năm trời, thực dân Pháp đã hai lần nhục nhã quỳ gối, mở cửa nước ta rước Nhật”. Với động từ “quỳ”, động từ “rước” Người đã tái hiện lên bộ mặt hèn nhát của kẻ thù chứ không phải là hành động của một người hùng đi “bảo hộ”.

Như vậy thực dân Pháp không phải là đứng về quân đồng minh chống Nhật mà là kẻ nhục nhã đầu hàng Nhật. Với cách tố cáo này, Bác đã xé toang chiêu bài thứ hai của thực dân Pháp trên trường quốc tế là “bảo hộ” Việt Nam. 

Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và có quyền trở lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dương có còn là thuộc địa của chúng nữa đâu? Bản Tuyên ngôn vạch rõ: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Luận điểm này về ý nghĩa pháp lí cực kì quan trọng. Nó sẽ dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên ngôn: “Bởi thế cho nên, chúng tôi lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam. Xóa bỏ mọi, đặc quyền của Pháp trên nước Việt Nam”. Sức mạnh chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có lí lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn lí lẽ của sự thật. Vì thế người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật”: “Sự thật là…”, “sự thật là…”. Và cuối cùng là “nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do độc lập…”. Đấy là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn. Đấy là hệ thống lí lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc, thực dân. Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do hay không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ không phải để bác bỏ mà để khẳng định. Bản tuyên ngôn đã chỉ cho thực dân Pháp biết rằng, nếu thực dân Pháp có phản bội Đồng minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành chủ quyền từ tay phát xít Nhật. Bản tuyên ngôn có mục đích là tuyên bố, phát ngôn trước đồng bào ta và công luận quốc tế để khẳng định nước Việt Nam hoàn toàn được độc lập. Để chứng minh ta được độc lập, lời văn tuyên ngôn phải chỉ ra ta là chính nghĩa còn kẻ thù là phi nghĩa. Điều này được thể hiện khi Người tố cáo hai tội ác của thực dân. Đồng thời, để chứng minh ta độc lập, tuyên ngôn phải phủ nhận mọi sự dính líu của ta với thực dân Pháp và Phát xít Nhật. Ta không còn là thuộc địa của Pháp bởi Pháp đã bán ta hai lần cho Nhật. Nhân dân Việt Nam có thể xóa bỏ mọi hiệp ước Pháp đã kí về Việt Nam. Chỉ một từ thôi những lời nói của Người hàm ý thật sâu sắc. Pháp đơn phương kí những hiệp ước về Việt Nam để khẳng định những đặc quyền của chúng trên đất nước ta nhưng chính phủ ta, nhân dân ta không hề biết nên những điều đó không thể được công nhận. Hơn nữa, ta không còn là thuộc địa của Nhật bởi ta đã cướp chính quyền từ tay Nhật. Và giờ đây, ta đã có chính phủ lâm thời, đủ sức lãnh đạo đất nước Việt Nam cho đến ngày tổng tuyển cử trong cả nước 6/1/1946. Như vậy, Việt Nam đã thực sự được độc lập và đủ khả năng giữ vững nền độc lập ấy. 

Phần thứ hai của bản“Tuyên ngôn Độc lập”, Hồ Chí Minh còn thể hiện nghệ thuật văn chính luận với những câu văn giàu tính hình tượng. Chỉ bằng chín chữ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Hồ Chí Minh đã dựng lên trước mắt của người đọc cả một chặng đường lịch sử dài dặc và xuyên suốt của nhân dân ta, đất nước ta: Pháp bỏ chạy trong đêm Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương ngày 9/3/1945. Nhật đầu hàng quân Đồng Minh Liên Xô vô điều kiện ngày 13/8/1945. Vua Bảo Đại nhượng lại ấn kiếm cho Việt Minh ngày 26/8/1945. Với 9 chữ này, Hồ Chí Minh đã còn tái hiện lại những thất bại thê thảm của kẻ thù và ngược lại là những chiến thắng thần tốc như triều dâng, nước lũ của cuộc Cách mạng tháng Tám. Khi kẻ thù càng thất bại, thì cuộc cách mạng của ta càng thắng lợi.

Bằng nghệ thuật so sánh tương phản, đối lập: một bên là thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng ở hành động “Thằng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng” trước khi tháo chạy thì một bên là nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhận đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: “Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp chạy ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”. Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”.Hay đó cũng chính là “đạo” của dân tộc Việt Nam mà từ xưa Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn;Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đó là cái gốc, là cội nguồn của mọi sức mạnh, mọi chiến công.

Bên cạnh đó, trong phần hai “Tuyên ngôn Độc lập”, Hồ Chí Minh đã khẳng định, vẽ lên tư thế ngời sáng, chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Chỉ có nhân dân Việt Nam mới đứng về quân đồng minh Liên Xô để chống Nhật ở chiến trường Châu Á – Thái Bình Dương. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, nhân dân Việt Nam đã chuẩn bị mọi lực lượng để kháng Nhật cứu quốc: xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Khi Nhật đầu hàng quân Liên Xô vô điều kiện, Đảng ta chớp cơ hội ngàn năm có một làm cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám thắng lợi, cướp chính quyền từ tay Phát xít. Trong tuyên ngôn, để chứng minh ta đã giành chính quyền từ tay Nhật, Bác đã phủ nhận mọi sự dính líu của ta với thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ta không còn là thuộc địa của Pháp bởi Pháp đã bán ta bán lần cho Nhật. Nhân dân Việt Nam có thể xóa bỏ mọi hiệp ước Pháp đã kí về Việt Nam. Ta không còn là thuộc địa của Nhật bởi ta đã cướp chính quyền từ tay Nhật. Hơn nữa, ta đã có chính phủ lâm thời, đủ sức lãnh đạo đất nước Việt Nam cho đến ngày tổng tuyển cử trong cả nước 6/1/1946. Như vậy, Việt Nam đã thực sự được độc lập. 

cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập
cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

2.2 Nghệ thuật cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

– Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục.

– Ngôn ngữ chính xác và gợi cảm.

– Giọng văn linh hoạt. 

Kết bài: cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn độc lập

“Tuyên ngôn Độc lập” còn thể hiện một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn của Hồ Chí Minh, đã tổng kết được trong một văn bản Tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, kinh nghiệm của nhiều thời kỳ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền và dân quyền của dân tộc và nhân loại. Chính Bác Hồ cũng tự đánh giá đây là thành công thứ ba khiến Người cảm thấy sung sướng trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng, cầm bút viết văn làm báo đầy kinh nghiệm của mình. Cũng vì thế mà vào | ngày Bác mất, một chính khách danh tiếng của châu Á đã phát biểu: “Người là ánh sáng hy vọng trong thế kỷ bạo tàn, ánh sáng hy vọng đó phải chăng là tư tưởng không gì quý hơn độc lập tự do của Người”.

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *