lediem.net giới thiệu các bạn bài viết: Người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng (Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu) (Ngữ Văn 12). Hướng dẫn các bạn triển khai các luận điểm trong bài văn nghị luận về một đoạn văn xuôi trích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu. Sau đây xin mời các bạn cùng tham khảo bài viết nhé!. 

Đề: người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình: – Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc), ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…

– Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguy không ? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

– Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt –

nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.

– Vậy sao không lên bờ mà ở – Đẩu hỏi.

– Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó ? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không

bỏ nghề được !

– Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ? – Tôi hỏi.

– Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh..

– Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được ! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.

– Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông

– Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, – bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, – trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo ? –

– Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?

Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp :

– Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp” con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được ! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó ! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ.

– Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ? – Đột nhiên tôi hỏi. – Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu)

Cảm nhận của anh chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về cách bình luận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyên Minh Châu trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng
người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

Gợi ý làm bài: 

Mở bài: người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm trong sự nghiệp cầm bút của mình: “Văn học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người.” Quả thực là như vậy. Nếu như trước đó, bước ng tâm thế của một cây bút lãng mạn, để mọi hình vào văn nghiệp trong tượng trong tác phẩm của mình thì sau này, trong quá trình viết, tìm hiểu khai thác về cuộc đời, Nguyễn Minh Châu nhìn nhận ra được sử mệnh của người cầm bút. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn thể hiện rõ nét tư duy “nghệ thuật vị nhân sinh” – văn học sinh ra là vì con người, vì cuộc đời của ông. Nhân vật Phùng trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu – một người nghệ sĩ có trái tim nhạy cảm trước cái đẹp, một tâm hồn luôn trăn trở suy tư về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Đây là nhân vật tư tưởng được Nguyễn Minh Châu khắc họa đậm nét và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả, đặc biệt là qua đoạn trích chứa nhiều thông điệp quý giá:

“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình […] Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”

Thân bài người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

1. Khái quát về tác giả, tác phẩm. người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

* Tác giả: người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

Nguyễn Minh Châu là nhà văn quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trong chiến tranh, ngòi bút của ông hướng về khát vọng giải phóng đất nước với cảm hứng sử thi và lãng mạn. Thời hậu chiến, ông được xem là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc), người tiền trạm cho sự đổi mới văn học. Ở giai đoạn này, ngòi bút của ông quan tâm nhiều đến số phận cá nhân với cảm hứng đời tư, thế sự. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu. Thông qua những cảm nhận của Phùng và số phận con người thời hậu chiến nhà văn đã để lại nhiều thông điệp quý báu, nhất là thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.

* Tác phẩm: người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” in lần đầu trong tập truyện ngắn “Bến quê”, sau được in thành tập truyện riêng với tên gọi “Chiếc thuyền ngoài xa”. Đoạn trích dẫn trên nằm ở phần đầu của tác phẩm, đây là đoạn trích miêu tả cảnh Phùng chụp được bức ảnh nghệ thuật và cảm xúc hân hoan hạnh phúc của anh khi được đón nhận cái đẹp.

người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng
người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

2. Cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

2.1 Nội dung người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

Sau phát hiện về cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại từ chiếc thuyền ngoài xa, Phùng đã kinh ngạc, chết lặng trước cảnh bạo lực gia đình mà những nhân vật chính ấy lại chính là những con người sống trong chiếc thuyền đẹp đẽ kia. Sau đó Phùng trở thành nhân chứng bất đắc dĩ tại tòa án huyện. Tại đây anh đã chứng kiến câu chuyện của người đàn bà hàng chài. Câu chuyện của chị giúp anh ngộ ra rất nhiều điều.

Trong tác phẩm và đoạn trích, người đàn bà hàng chài hiện lên là hình ảnh của con người vô danh với số phận bất hạnh đáng thương Người đàn bà hàng chài mang đến cho ta cảm nhận về nỗi khổ vô hạn vì nghèo túng – đông con – thuyền chật: “ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”. Lời tâm sự đẫm nước mắt khiến ta hiểu thêm: nghề đi biển phụ thuộc vào mẹ thiên nhiên, cuộc sống bấp bênh, mong manh, luôn đối mặt với hiểm nguy. Mấy chữ “biển động suốt hàng tháng” gợi ra cuộc mưu sinh khó khăn, nhọc nhằn; đói ăn khủng khiếp đến nỗi phải ăn cả cây xương rồng. Bây nhiêu đó cũng đủ thấy được cái đói nghèo của một gia đình thời hậu chiến. Mở rộng ngoài đoạn trích ta thấy, cuộc sống lam lũ, khó nhọc, vất vả còn hằn in lên vóc dáng của người đàn bà: khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng để kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ; lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.

Chị bị cái xấu đeo đuổi như một định mệnh ngay từ lúc còn nhỏ: “từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu”, nguồn cơn tạo nên sự bất hạnh ấy là trận dịch đậu mùa và những di chứng để lại là những nốt rỗ chằng chịt trên khuôn mặt khiến chị trở thành người đàn bà không nhan sắc; ông trời lại còn đày cho cái dáng “cao lớn với những đường nét thô kệch” khiến chị không có gì để hấp dẫn. Chị còn gánh nỗi khổ cùng cực, là nạn nhân của bạo lực gia đình. Đớn đau hơn,  kẻ gây ra bạo lực lại chính là người chồng mà chị yêu thương. Với Đẩu thì quy luật lão đàn ông đánh vợ mà Đẩu nghiệm ra ở bi kịch người đàn bà hàng chài là “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Trong cảm nhận của viên chánh án tòa án huyện này thì “cả nước này không một người chồng nào vũ phu như hắn”. Còn với người đàn bà thì chẳng có quy luật nào như thế cả vì “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”.

Vượt lên trên số phận bi kịch, người phụ nữ vô danh ấy vẫn tỏa sáng bao vẻ đẹp lấp lánh. Bên ngoài chị giống như viên ngọc thô lấm láp nhưng trong chiều sâu nhân bản lại là viên ngọc quý ánh lên một tâm hồn cao thượng, đẹp đẽ.

Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài trước : hết là vẻ đẹp của người vợ hiền thảo, nhân hậu, bao dung, vị tha độ lượng. Người vợ ấy nhận hết mọi thiệt thòi về mình: nhận mình xấu nên không ai lấy, nhận việc trót có mang với anh hàng chài; nhận mình khổ là do “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Có lúc chị cũng như ân hận “giá tôi đẻ ít đi”. Những thiệt thòi ấy khiến chị dường như cam chịu tất cả. Xem việc gánh lấy cái khổ, chịu khổ như một thói quen, một định mệnh, một lẽ đương nhiên mà mình phải gánh lấy. Dù được Đẩu gợi ý ly hôn để thoát cảnh bạo hành nhưng người đàn bà một mực không đồng ý: Trước đó, khi mới tới tòa án huyện, chị tha thiết van xin: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nợ”. Trong đoạn trích này chị lại thêm một lần tha thiết “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó”. Chị thà chấp nhận mọi hình phạt của pháp luật, kể cả khung hình phạt cao nhất là đi ở tù nhưng bỏ chồng thì không.

Sâu xa của lý do không bỏ chồng chính là sự nhân hậu, độ lượng bao dung, vị tha của chị. Chị thấu hiểu bản chất của chồng: “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Hắn thà chấp nhận cảnh “nghèo khổ, túng quẫn” còn hơn là đi lính cho ngụy. Sống nghèo khổ, túng quẫn chứ không bao giờ chấp nhận cầm súng để chĩa vào đồng bào mình. Vậy bản chất người chống ấy là tốt. Chị nhìn chồng mình không phải là phạm nhân mà là nạn nhân. Chính thất học, đói nghèo, lam lũ đã tạo ra người đàn ông độc ác ấy. Hắn là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, cơ cực do hậu quả của chiến tranh để lại. Tính vũ phu, cộc cằn, thô lỗ được sinh ra từ trong những mặc cảm bản thân, mặc cảm của đói nghèo, từ một kẻ bất lực trước cơm áo gạo tiền. Vấn đề mà Nguyễn Minh Châu đặt ra ở đây không chỉ là sự trăn trở về tình trạng bạo lực gia đình mà còn vì nguyên nhân sâu xa của nó. Qua đó nhà văn cất lên tiếng nói khẩn thiết: cần khắc phục hậu quả chiến tranh, cần tạo công ăn việc làm cho nhân dân, cần giải quyết đói nghèo và thất học. Đúng như có lần nhà văn đã nói: “Hôm nay chúng ta chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc, nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người… Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài”.

Phía sau sự thất học, lam lũ là người phụ nữ thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Trước đó chị xưng hô “con -quý tòa”, sau đó chị đổi cách xưng hô: chị và các chú. Sự thay đổi này thể hiện tâm thế chủ động ở chị, sự bản lĩnh, sự từng trải. Chị lên án sự ngây thơ của Đẩu và Phùng trong cách nhìn nhận vấn đề: “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”. Muốn hiểu được người khác, đầu tiên phải từ bỏ cách nhìn phiến diện, một chiều, phải đặt mình vào hoàn cảnh người khác. Phùng và Đẩu vừa không phải là người làm ăn lam lũ khó nhọc nên không thể hiểu được công việc lam lũ nhọc nhằn của họ; vừa không phải là người trong cuộc nên càng không thấu cảm được nỗi vất vả của người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông. Chỉ khi đặt mình vào người đàn bà, mới hiểu được những suy nghĩ của chị là đúng đắn, hợp lý. Lý giải việc không bỏ chồng, chị đã thổ lộ: “đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa.”. Cần người đàn ông, vì đàn ông là trụ cột, họ làm ăn và nuôi con; họ chèo chống gia đình. Bởi vậy, dù hắn man rợ, độc ác vẫn phải chịu. do tưởng như ngớ ngẩn nhưng sâu xa trong đó là cả biết bao nhiêu điều khiến ta phải suy ngẫm. Ngay sau đoạn trích này, Phùng đã trực tiếp chứng kiến trận bão biển, đã thấu hiểu được cuộc sống mưu sinh đầy những khó khăn, bấp bênh, mong manh của gia đình thuyền chài. Phùng tự khắc sẽ lý giải được tại sao người đàn bà kia không đồng ý với giải pháp ly hôn của Đẩu.

Vượt lên trên tất cả, người đàn bà hàng chài là người mẹ giàu đức hi sinh, giàu tình mẫu tử. Tình cảm ấy tha thiết, thiêng liêng, cảm động đã tỏa xuống tác phẩm làm câu chuyện trở nên ấm áp. Chị ý thức sâu sắc thiên chức làm mẹ mà ông trời đã ban cho sứ mệnh: đẻ con và nuôi con; sống vì con: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Chị xem cái khổ là lẽ đương nhiên, khổ vì con là một danh dự, một phẩm hạnh. Ý thức ấy ở chị có thể do hạn chế bởi vốn dĩ đã quen n với sự cam chịu, an phận, nhưng trên hết vẫn là đức hi sinh cao thượng chị dành cho con. Giữa việc sống cho con và sống cho mình, người mẹ ấy đã chọn việc sống cho con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Đó là thái độ sống hi sinh vì con.

Thương con, sợ con bị tổn thương tinh thần, chị đã xin lão chồng “có đánh thì đưa tôi lên bờ mà đánh”. Chị dứt ruột gửi thằng Phác – đứa con mà chị yêu thương nhất – lên rừng ở với ông ngoại nó. Bởi chị sợ thằng Phác lớn lên ở đây, nhân cách nó sẽ phát triển lệch lạc vì nhiễm thói bạo lực từ người cha của nó. Tình thương con ở chị gắn liền với lý trí.

Chị lấy con làm niềm vui, lấy gia đình làm điểm tựa để vượt lên số phận nghiệt ngã của chính mình: “Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.” Cụm từ “chợt ửng sáng lên một nụ cười” cho ta cảm nhận được hạnh phúc của chị. Cuộc sống dù bất hạnh, khổ đau nhưng vẫn nhẫn nhịn, cam chịu, vẫn tin tưởng vào hạnh phúc – dù hạnh phúc ấy ít ỏi, hiếm hoi. Chị góp nhặt niềm vui dù là bé nhỏ để bù đắp lên những cơ cực cuộc đời, lấy đó làm nguồn động viên, là động lực để sinh tồn, để vươn lên sống vì con. Với chị, niềm vui thật giản dị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”. Chị lấy những giây phút “hòa thuận vui vẻ” ngắn ngủi để an ủi mình, vực dậy chính mình. Không chấp nhận giải pháp li hôn để giữ lại cho con một gia đình để chúng vẫn có bố, có mẹ, có anh chị em quây quần. Tình mẫu tử và trái tim người mẹ, người vợ ấy thật cao cả, bao dung biết nhường nào.

người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng
người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

Tóm lại, qua tác phẩm nói chung, qua đoạn trích nói riêng đã thể hiện cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn. Nhìn con người, cuộc sống ở góc nhìn đa chiều, quan tâm đến số phận cá nhân con người – nhất là con người lao động vất vả, lam lũ sau chiến tranh. Sau chiến tranh, cuộc sống con người vẫn còn nhiều những khó khăn gian khổ: cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi vậy vấn đề cần thiết đặt ra là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt đẹp hơn.

Đoạn trích cũng để lại giá trị nhân đạo sâu sắc: nhà văn đồng cảm, cảm thương cho số phận khổ đau, nghiệt ngã của con người lao động thời hậu chiến. Lên án nạn bạo lực gia đình, tính gia trưởng độc đoán đang tồn tại âm ỉ trong một số gia đình. Lên án cách nhìn đời hời hợt, phiến diện của một bộ phận con người trong xã hội. Phát hiện, trân trọng, nâng niu, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người đàn bà hàng chài. Tin tưởng vào sức vươn dậy của nhân vật, tin vào sự cứng cỏi, can đảm và tình mẫu tử sẽ là đôi cánh thiêng liêng đưa người mẹ và đàn con vượt qua được số phận hướng tới tương lai tươi sáng.

2.2 Nghệ thuật người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

Thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Nguyễn Minh Châu vận dụng linh hoạt, sáng tạo: trần thuật hấp dẫn, khách quan. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ mang tính nhận thức và khám phá. Tâm lý nhân vật được miêu tả tinh tế, chân thực. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, chắt lọc. Giọng điệu trầm lắng, trăn trở suy tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ. Tất cả đã hòa quyện lại dưới ngòi bút Nguyễn Minh Châu làm nên thành công của đoạn trích và góp phần làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Kết bài: người đàn bà bỗng chép miệng ; cảm nhận đoạn trích người đàn bà bỗng chép miệng ; dàn ý người đàn bà bỗng chép miệng

Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành “nỗi ám ảnh” với chính nhân vật người nghệ sĩ Phùng, cũng là hình ảnh đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng đọc giả. Một chút ồn ào, một chút đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót thương, một chút đồng cảm, tôi vẫn nghĩ rằng những cảm xúc bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu chuyện này còn nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà hàng chài vẫn đẹp đẽ, thánh thiện, bao dung. Người đàn bà ấy là biểu trưng cho biết bao nhiêu những người phụ nữ hàng chài khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ một chút đã thấy sáng lấp lánh, long lanh.

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *