lediem.net giới thiệu các bạn bài viết: Sông Mã xa rồi tây tiến ơi (Tây Tiến , Quang Dũng) ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi (Trích Tây Tiến – Quang Dũng) (Ngữ Văn 12). Hướng dẫn các bạn triển khai các luận điểm trong bài văn nghị luận về một đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Sau đây xin mời các bạn cùng tham khảo bài viết nhé!. 

Đề: sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Đọc văn bản sau: sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

 Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi,

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

                            Phù Lưu Chanh, 1948

(Mây đầu ô, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986)

sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Gợi ý làm bài: sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Mở bài sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

“Có khoảng không gian nào, đo chiều dài nỗi nhớ

Có khoảng mênh mông nào, sâu thẳm hơn tình thương”

 Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ thương. Nếu như Giang Nam gửi nỗi nhớ về quê hương của mình qua bài thơ cùng tên “Quê hương”, Hoàng Cầm gửi tình yêu vùng đất Kinh Bắc qua bài thơ “Bên kia sông Đuống” thì Quang Dũng – nhà thơ đa tài và cũng rất mực đa tình lại lựa chọn và khai phá một nỗi nhớ thương rất khác – nỗi nhớ thương về một đoàn binh, nhớ thương về vùng đất qua một thi phẩm với tựa đề: “Tây Tiến”. Trong bài thơ Tây Tiến, nổi bật lên hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân nhiều gian khổ, hi sinh ở miền núi Tây Bắc, được thể hiện cụ thể qua đoạn văn bản sau: 

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ….

…. Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Thân bài sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

1. Khái quát về tác giả, tác phẩm.  sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Quang Dũng là 1 nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, … Nhưng Quang Dũng được biết đến nhiều là một nhà thơ. Thơ ông được nhiều thế hệ công chúng yêu thích bởi vẻ đẹp lãng mạn, thanh lịch và tinh tế, phóng khoáng và hào hoa.  

Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội (trung đoàn 52), được thành lập đầu năm 1947, hoạt động ở biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là trí thức, thanh niên Hà Nội. Cuối năm 1948, Quang Dũng  rời đơn vị đi nhận nhiệm vụ khác. Ở Phù Lưu Chanh, ông nhớ đơn vị cũ nên viết bài thơ này. Tên ban đầu của bài thơ là Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến, được in trong tập Mây đầu ô.

sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

2. Phân tích nội dung sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỷ niệm của một đời chiến binh, ta chợt nhận ra, “Tây Tiến” được bắt đầu bằng một tiếng gọi đầy thiết tha, trìu mến:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Cả bài thơ không một dấu chấm câu, nỗi nhớ tràn từ câu thơ này sang câu thơ khác, bắt nhịp từ tứ thơ này sang tứ thơ khác. Nỗi nhớ tích tụ, dồn nén, bật lên thành tiếng gọi thiết tha “Tây Tiến ơi!” – Đó cũng chính là cách mà Quang Dũng mở đầu bài thơ của mình. Cảm xúc hiện hình trong nỗi nhớ chơi vơi. Đó vừa là trạng thái của nỗi nhớ vừa là trạng thái của cảnh vật được nhớ. Cả chủ thể và đối tượng dường như đã trộn lẫn vào nhau mà đồng hiện trong nỗi nhớ chơi vơi ấy. Nỗi nhớ trở thành cội nguồn cảm hứng sáng tạo và làm nên cấu trúc của thi phẩm. Mạch bài thơ là mạch nhớ, là sự đan dệt của kỉ niệm, với những sực nhớ miên man, những vụt hiện bất chợt. Cũng từ đây nỗi nhớ dậy lên làm một nguồn sinh khí, nó soi tràn đến đâu muôn vàn hình sắc trong kí ức tươi tắn, sống dậy đến đó. Nhờ nỗi nhớ mà những hình ảnh của những ngày qua cồn cào sống dậy. Chính nỗi nhớ “chơi vơi” đã dẫn ngòi bút tác giả đi miên man trong thế giới thơ. Tất cả kỉ niệm về quãng thời gian không thể nào quên với đồng đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà cũng rất thơ mộng ấy bỗng trở thành tiếng gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng của người chiến sĩ, thành âm vang của cả thời đại, của cả dân tộc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con sông mang âm điệu của núi rừng, của địa bàn hoạt động gắn với một đời chiến binh là hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong bài thơ. Hình ảnh nhắc nhớ về miền đất năm tháng đầu ra mặt trận gắn bó thiết tha, từ dòng sông gợi mạch nguồn cảm xúc, hình ảnh về binh đoàn hiện lên rõ nét. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn quân này phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, nhà thơ,… Quang Dũng là một trong những chàng trai trẻ ra đi trong mùa xuân năm ấy, tiến về phía Tây bảo vệ biên giới theo lời kêu gọi của Tổ quốc thân yêu. Binh đoàn Tây Tiến chiến đấu khắp các địa bàn thuộc tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào), trong hoàn cảnh những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng “họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm”. Đến bây giờ, khi cảm xúc đã “ứ đầy trong tim và cất lên thành lời” thì tất cả nay cũng đã xa rồi, thiên nhiên miền Tây xa rồi, binh đoàn Tây Tiến cũng đã xa rồi, tất cả chỉ còn lại trong hồi ức mà thôi. Hình ảnh dòng sông Mã – biểu tượng của mảnh đất Tây Bắc, chứng nhân lịch sử cho hành trình binh đoàn Tây Tiến đã đi qua xuất hiện ngay trong câu thơ đầu. Sự khởi nguồn của con sông giống như bắt đầu cho mạch kể, mạch nhớ. Nhớ về thiên nhiên miền Tây, nhớ về những năm tháng đầu gắn với đoàn binh Tây Tiến. Đặt giữa hai danh từ “sông Mã” và “Tây Tiến” là động từ xa rồi – điểm rơi thấp nhất của câu thơ, nó giống như một khoảng hụt hẫng khi những kỷ niệm chỉ giống như những thước phim trôi qua để lại biết bao nhiêu cảm xúc đong đầy. Mặt khác nó cũng thể hiện khoảng cách về không gian vừa gợi độ lùi về thời gian, thanh bằng trong câu thơ khiến âm điệu câu thơ như trầm lắng xuống để cảm xúc tỏa lan.

Đến câu thơ thứ hai, từ “nhớ” được Quang Dũng tinh tế điệp lại hai lần: “Nhớ về” và “nhớ chơi vơi”. Với từ “nhớ về” dường như đang gợi ra một cuộc hành trình của tâm tưởng, ngược dòng thời gian để tìm lại những gì thân thương, gắn bó. Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc tới chính là nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Giữa khoảng không gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt để vào đâu cho phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” thường gợi cảm giác không chắc chắn vững chãi, cảm giác đó thường có khi người ta ở một độ cao. Từ nghĩa gốc của từ chơi vơi ta có thể hình dung “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ hướng tới miền đất Tây Bắc, với đỉnh núi quanh năm mây phủ, với đèo cao vực sâu, “nhớ chơi vơi” còn là nỗi nhớ da diết đủ để kéo con người tạm rời bỏ cảm nhận về thực tại để chỉ chìm đắm trong những hồi ức về quá khứ. Cũng có thể hiểu theo một góc độ khác, có lẽ nhà thơ đang đứng giữa lưng chừng nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết, mênh mang bao trùm không gian, thời gian. Hai câu thơ được Quang Dũng khéo léo gieo vần “ơi”, đây là âm mở, tạo ra dư ba cho câu thơ, đó cũng chính là cách để nhà thơ để cho cảm xúc chủ đạo của bài thơ lan toả – nỗi nhớ!

Chỉ với hai câu thơ đầu tiên, những ký ức gắn với binh đoàn đã từ từ hiện ra lung linh huyền diệu, trong chuyến độc hành quay về với những ký ức, nhà thơ Quang Dũng thêm một lần đi lại những con đường đã qua. Dọc theo khúc độc hành của nỗi nhớ thương, thi nhân tìm về những miền đất gắn với kỷ niệm một đời chiến binh:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Từ hai câu thơ khơi nguồn đầy thiết tha trìu mến ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan tỏa như mỗi chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian địa lý in đẫm kỷ niệm của một thời chiến binh, nay trở thành mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ năm nao nhớ lại những kỷ niệm trong bao chặng được hành quân vất vả. Và ở câu thơ tiếp theo này, hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp gây ấn tượng mạnh với bạn đọc. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng “sương lấp”, “hoa về”, “đêm hơi” khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” nhanh chóng kéo bạn đọc trở về với sự cân bằng. Không gian được đề cập tới là địa danh Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm ngát, khiến những bước chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề nhưng nay lại được tiếp thêm sức mạnh. Quang Dũng quả thực dùng từ rất tinh tế. Là “hoa về” chứ không phải hoa nở, là “đêm hơi” chứ không phải đêm sương, cách dùng từ này khiến người đọc cảm thấy được sự nhẹ nhõm của không gian. Bao nhiêu mỏi mệt từ đó mà tan biến. Cũng với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:

“Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành của người lính ra trận trong những vần thơ của Tố Hữu. Còn trong thơ Quang Dũng, thiên nhiên cũng là người bạn đồng hành, thế nhưng lại ở một trạng thái cảm xúc khác: xoa dịu những mệt mỏi, tiếp thêm động lực cho những chiến binh Tây Tiến. Có thể thấy, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù là hiện thực gian khổ thì những tiếng thơ của người con xứ Đoài vẫn thấy ánh lên nét mơ màng, lãng mạn: “Dừng lại đầu dốc, thở mạnh hương thơm của những loài hoa thầm nở từ rừng sâu phảng phất bay ra, người ta có thể quên một phút cây súng đang cầm ở tay mà tưởng mình đang sống ở một đời thanh bình”. Tiếp đó, bối cảnh thiên nhiên miền Tây hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Đây là đoạn thơ mang dáng dấp của bài thơ tứ tuyệt, đặc tả bước đường hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, gập ghềnh cũng được vẽ ra một cách chân thực ở đoạn thơ này. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”

Những con dốc là hình ảnh đầu tiên được đề cập tới. Những con dốc được miêu tả bằng từ láy tượng hình “khúc khuỷu, thăm thẳm” khiến người đọc dễ dàng liên tưởng tới địa hình gấp gãy, hiểm trở, khó đoán, khó đi. Nếu như “khúc khuỷu” gợi ra cái quanh co của con đường vòng qua núi đèo đồi dốc lại vừa gợi ra cái gập ghềnh của đường đi thì “thăm thẳm” lại có nghĩa là rất sâu rất xa không nhìn thấy đáy, thấy đích. Trong ngữ cảnh của câu thơ này nó vừa tạo ra cái hun hút của đáy vực khi nhìn từ đỉnh dốc, lại vừa gợi ra cái vời vợi của khoảng không gian khi từ đỉnh dốc phóng tầm mắt về phía chân trời. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nối nhau, con đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai đặc tả độ cao của những ngọn núi nơi đây:

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân với những khoảnh khắc tinh nghịch, dí dỏm, đậm chất lính. Đường hành quân dài thăm thẳm muôn trùng, có khoảnh khắc đi lên cao tới mức tưởng như đang đi giữa biển mây. Đây cũng là nguyên cớ có hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”. Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình ảnh súng đang chạm tới trời. Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoa, lãng mạn trong chất thơ của Quang Dũng. Nó có nhiều điểm tương đồng với liên tưởng vừa hiện thực, vừa lãng mạn trong thơ của Chính Hữu:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Cảnh vừa khắc nghiệt, gian khổ, đan xen nét lạc quan, hồn nhiên, tinh nghịch của anh bộ đội cụ Hồ chính là điểm nhấn cho đoạn thơ này. Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới đích đến của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, khiến người đọc dường như đang chơi trò bập bênh chóng mặt. Núi cao thì cao vời vợi, vực sâu thì sâu thăm thẳm. Câu thơ mang dáng dấp của hai vế tiểu đối sử dụng các cặp từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của núi rừng nơi đây. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ đe dọa bởi địa hình hiểm trở, người ta vẫn nhìn thấy sự sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn những nếp nhà Pha Luông:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những nếp nhà Pha Luông nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những chiến sĩ Tây Tiến dừng chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau những chặng đường hành quân vất vả. Tôi tự hỏi lòng mình, trong giây phút được lắng lại nhiều phần tâm hồn như vậy, người chiến binh Tây Tiến liệu có đang nhớ về quê hương của mình hay không?

sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân vất vả bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã, Quang Dũng không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy, nhà thơ tái hiện lại trong những vần thơ của mình:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Nhà thơ nói về “anh bạn” là nói về những đồng chí, đồng đội của mình, ngày nối ngày, đêm nối đêm, mưa nắng đói rét bệnh tật thiếu thốn mệt mỏi tới mức kiệt sức. Từ “gục” có phần nặng nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng hình ảnh “bỏ quên đời”. Ý thơ này được hiểu theo hai nét nghĩa, đó là những giây phút đời thường trong chặng đường hành quân của những người lính, nó thật giống với những vần thơ của nhà thơ Hồng Nguyên:

“Chúng tôi đi

Nắng mưa sờn mép ba lô,

Tháng năm bạn cùng thôn xóm.

Nghỉ lại lưng đèo

Nằm trên dốc nắng.”

Đó là những phút giây ngồi nghỉ bên vệ đường, nhìn nắng vàng xôn xao, nghe gió rừng reo làm dịu mát những mệt mỏi trên đường hành quân. Thế rồi, những người lính chợp mắt vài phút giây nghỉ ngơi ngắn ngủi, để tiếp tục chặng đường phía trước đầy vất vả, gian lao. Hình ảnh ấy cho bạn đọc cảm nhận về vẻ đẹp rất đời của những người lính Tây Tiến. Thế nhưng nhìn từ góc độ khác, cách Quang Dũng viết đang muốn nói tới sự hi sinh của những chiến binh. Cái chết với người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản. Họ đã bao giờ sợ khi đối diện với cái chết đâu, chỉ cần cái chết ấy là vì Tổ quốc. Những lời thơ Quang Dũng viết khiến ta nhớ tới những dòng nhật ký của liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm: “Cuộc sống vô cùng anh dũng, vô cùng gian nan, chết chóc hi sinh còn dễ dàng hơn ăn một bữa cơm. Vậy mà người ta vẫn bền gan chiến đấu. Con cũng là một trong muôn nghìn người đó, con sống chiến đấu và nghĩ rằng mình sẽ ngã xuống vì ngày mai của dân tộc. Ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có con đâu. Con tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc”. Vâng! Chỉ cần sự hy sinh ấy có thể góp một phần nhỏ bé làm nên hình hài đất nước, đòi lại độc lập, tự do, họ luôn trong tâm thế sẵn sàng đón nhận. Tư thể hiên ngang của chiến binh Tây Tiến một thuở cùng lý tưởng sống cao đẹp trong năm tháng chiến tranh ấy đã được thể hiện qua ý thơ này.

sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi
sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Thế nhưng, những khó khăn không chỉ đến từ chặng đường hành quân, ngay cả nơi doanh trại sâu trong rừng hiểm trở cũng là nỗi hiểm nguy những người lính phải đối mặt. Kết cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên và con người tạo nên sự đối chiếu thầm lặng để rồi từ đó tôn vinh sức mạnh của con người, dù con người có nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm nguy đe dọa họ từ mọi phía, mọi nơi. Giữa những gập ghềnh, gấp gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị đe dọa bởi thác dữ, thú rừng:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

“Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại. Điều này chứng tỏ thác dữ, thú rừng không phải xuất hiện ngày một ngày hai, mà lặp đi lặp lại ngày nào cũng như vậy. Sự đe dọa dường như bủa vây từ mọi phía, người lính trong hoàn cảnh phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Hai hình ảnh “thác” và “cọp” là hiện thân cho sức mạnh vừa thiêng liêng lại vừa hoang dã của tự nhiên được Quang Dũng đặc tả trong ý thơ. Trong tiếng thơ của Quang Dũng, bạn đọc dễ dàng hình dung ra hình ảnh thác “gầm thét” gợi tính chất dữ dội vang vọng của âm thanh vừa gợi ra cơn cuồng nộ của tự nhiên. Thác mang sức mạnh linh thiêng, bí ẩn của rừng sâu. Bên cạnh đó còn có sự đe doạ của thú rừng. Sự hô ứng giữa tên đất với tính chất hình ảnh được gợi tả cũng góp phần kích thích trí tưởng tượng của người đọc, tên Mường Hịch có một âm hưởng trắc nặng, lại gắn với hình ảnh “cọp trêu người” hai thanh trắc liên tiếp trong hai chữ “hịch – cọp” còn như gợi ra tiếng bước chân của chúa sơn lâm như đang dậm dịch trong màn đêm. Chỉ với hai câu thơ, thiên nhiên vô tri dưới ngòi bút của Quang Dũng lại trở nên đầy sinh khí thậm chí còn chứa đựng một nguồn sức mạnh vừa dữ dội lại vừa bí ẩn. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước độc qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trong những vần thơ này, Quang Dũng đã lựa chọn một địa danh có ý nghĩa quan trọng trong những bước đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến “Mai Châu” . Tôi bỗng nhớ đến những câu thơ của một thi nhân đã viết về mảnh đất này:

“Tôi theo chân hụt hẫng bậc thang.

Hương cứ ngát và hoa cứ thắm.

Bỗng chợt nghiêng qua chớp chiều vạn dặm.

Đôi mắt em trong cánh ô đỏ thắm.

Nút chặt hồn tôi”.

Không thể phủ nhận, tên gọi Mai Châu gợi ra sự êm ái, bình yên, nhẹ nhàng. Ngay từ những ngày đầu tiên thung lũng Mai Châu là địa điểm đóng quân đầu tiên của Trung đoàn Tây Tiến. Đơn vị thành lập tháng 2-1947 và đã được đồng bào Thái ở bản Tùng Đậu nuôi dưỡng che chở. Mai Châu là trọng điểm đối với miền Tây Bắc. Đây được coi là chốt trọng điểm đánh chặn và tiêu diệt giặc Pháp. Những trận đánh của binh đoàn Tây Tiến cũng đã diễn ra trên những tuyến đường này – dữ dội và khốc liệt. Ở mảnh đất ấy, Quang Dũng cùng với những người đồng đội của mình không chỉ gặt được mùa cách mạng mà còn gặt được mùa tình dân. Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về, đó là khoảnh khắc những bữa ăn của đồng bào chuẩn bị cho cán bộ cách mạng để rồi sau bao tháng ngày nhớ lại, vẫn thấy vương vấn đâu đây nếp nhà cơm lên khói, những bữa cơm tỏa thơm nếp xôi. Hình ảnh những mái nhà với làn khói bay bảng lảng đã gây ấn tượng trong tâm trí bạn đọc về một khung cảnh yên bình. Thêm vào đó còn là hương vị “thơm nếp xôi” – hương vị của Tây Bắc, mùi của núi rừng, mùi của tình cảm nồng đượm nhân dân dành cho những người chiến sĩ. Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên ta cũng từng bắt gặp những hình ảnh bình dị, thân thương ấy:

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương”

Chỉ khác là, trong tiếng thơ Quang Dũng, ta nhìn thấy sự lãng mạn hoá, thi vị hoá từ những điều bình dị ấy. Để rồi, tất cả khung cảnh, hương vị đã được kết tinh thành một mùa đặc biệt – mùa của tình quân dân. Nhà thơ đã gọi tên mùa ấy theo cách gọi của riêng mình, đó là “mùa em”. Đất trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng lại có một mùa thật lạ. Mùa em ở đây có phải chăng là mùa “con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy làm nương”, mùa ta gặp nhau mùa trao yêu thương mùa vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên. Mùa em ở đây cũng chính là mùa của sự đủ đầy, của tình người ấm áp giữa đồng bào Tây Bắc và những chiến binh Tây Tiến một thuở. Quang Dũng đã định nghĩa những năm tháng ấy bằng một danh từ, dù thoạt nghe có vẻ trừu tượng nhưng khi đặt để vào trong dòng cảm xúc của nhà thơ ta thấy được đủ đầy hình ảnh, sắc màu, hương vị của mùa thân thương ấy. Đó là mùa chiến đấu đầu tiên của người lính trẻ, là mùa cách mạng, mùa tình dân. Cũng chính là những năm tháng không thể nào quên khi gắn bó tuổi trẻ của mình với thiên nhiên miền Tây, với đồng bào. Chọn cho mình một mùa rất riêng, nhà thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc bằng tiếng thơ ấy!

 

3. Nghệ thuật sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng là một sự sáng tạo độc đáo, vô cùng đặc sắc về hình thức nghệ thuật. Bài thơ là sự kết hợp tài tình, nhuần nhuyễn giữa bút pháp lãng mạn và bút pháp tả thực. Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc. Trong đó, có từ chỉ địa danh như: Mai Châu, Mường Hịch, Sài Khao, Mường Lát, Sầm Nứa, … gợi cảm xác xa xôi, hẻo lánh, hoang sơ. Vậy mà, người lính Tây Tiến đã phải hành quân đi qua. Hệ thống từ láy, từ ghép gợi hình ảnh đã diễn tả rất thành công thiên nhiên miền núi Tây Bắc vừa hùng vĩ hoang sơ lại không kém phần thơ mộng mà trữ tình, mà sau này, nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói đó chính là “chất vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc. Từ Hán Việt (biên cương, mồ viễn xứ, ..) đã thể hiện sự trang trọng khi nhắc và nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Bên cạnh đó, bài thơ còn là sự kết hợp độc đáo của chất nhạc và chất họa. 

sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi
Tây Bắc

4. Đánh giá, khái quát sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Cái hay của nhà thơ này là bên cạnh những nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng trai Hà Nội. Có người nhận định rằng với bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.

Đinh Minh Hằng từng nhận xét: “Tây Tiến – sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn”. Quả thật vậy, bài thơ Tây Tiến là thành công, thăng hoa rực rỡ của một tâm hồn lãng mạn. Bằng bút pháp lãng mạn, nhà thơ Quang Dũng đã rất thành công khắc họa vẻ đẹp chân dung của tượng đài người lính Tây Tiến. Đó là những người trí thức, hào hoa, lãng mạn, đa tình xuất thân từ Hà Nội phồn hoa, đô thị nhưng tự nguyện dấn thân, ra đi lên vùng xa xôi, nghèo nàn, nhiều thiếu thốn vì một lí tưởng cao đẹp “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ lạc quan yêu đời, ngạo nghễ với lao lung. Phải chăng đó là sự thành công, sáng tạo độc đáo của nhà thơ Quang Dũng với bài thơ Tây Tiến.

 

Kết bài sông mã xa rồi tây tiến ơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ; sông mã xa rồi tây tiến ơi mai châu mùa em thơm nếp xôi

Thời gian trôi đi, chỉ còn tình yêu và nỗi nhớ thương ở lại. Bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh của mình, để lại biết bao những xúc cảm bâng khuâng trong lòng đọc giả. Lịch sử có thể ngày càng lùi xa, nhưng những tháng năm “bom rơi đạn nổ” với sự dũng cảm, can trường của người lính sẽ còn mãi ở đây, trong trái tim của biết bao nhiêu thế hệ sau này. Xin được mượn lời thơ của nhà thơ Giang Nam để thay lời kết cho bài viết. Có phải chính những vần thơ đã thêm một lần nữa giúp khẳng định ý nghĩa của “Tây Tiến” trong lòng đọc giá:

“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông”

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *