lediem.net giới thiệu các bạn bài viết: Nhớ gì như nhớ người yêu (Việt Bắc, Tố Hữu); Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương (Ngữ Văn 12). Hướng dẫn các bạn triển khai các luận điểm trong bài văn nghị luận về một đoạn thơ trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Sau đây xin mời các bạn cùng tham khảo bài viết nhé!. 

Đề: nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Đọc văn bản sau: nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi.

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.

Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

                                                                                                                                                                                                                           10-1954

(Việt Bắc, NXB Văn học, Hà Nội, 1962)

nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Gợi ý làm bài: nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Mở bài nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Đề tài kháng chiến là một đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kì kháng chiến gian khổ hay hào hùng của dân tộc, ta đều có thể tìm thấy trong thi ca. Nhắc đến đề tài kháng chiến, sẽ thật thiếu sót nếu ta không nhắc đến một thi sĩ, chiến sĩ có chặng đường thơ song hành cùng chặng đường cách mạng – nhà thơ Tố Hữu. “Việt Bắc” là thi phẩm tiêu biểu của nhà thơ Tố Hữu, là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Đọc bài thơ, ta bồi hồi xúc động trước những tháng ngày kháng chiến gian khổ của quân và dân Việt Bắc. Nổi bật lên trong tác phẩm là nỗi nhớ về thiên nhiên và con người núi rừng Việt Bắc của những anh cán bộ kháng chiến, được thể hiện cụ thể qua đoạn thơ sau: 

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

Thân bài nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

1. Khái quát về tác giả, tác phẩm nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng, thơ ông luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vẻ vang của dân tộc Việt Nam.

 “Việt Bắc” được Tổ Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ được viết nhân buổi chia tay lưu luyến đó. Tác phẩm được in trong tập thơ cùng tên sáng tác trong giai đoạn 1946 – 1954.

Tác phẩm này được đánh giá là tác phẩm đỉnh cao và tiêu biểu cho tư tưởng phong cách nghệ thuật của đời thơ Tố Hữu, được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

2. Nội dung nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Bài thơ “Việt Bắc” triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ, người đi thật tự nhiên, khéo léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã khơi nguồn biết bao kỉ niệm ùa về. Kỉ niệm kết nối kỉ niệm, kí ức gọi kí ức. Tất cả bỗng thức dậy và trôi chảy trong mạch cảm xúc dào dạt tưởng chừng không bao giờ vơi cạn. Kết nối những kỉ niệm, kí ức ấy chính là sợi nhớ, sợi thương. Chỉ riêng đoạn thơ tám câu này, từ “nhớ” đã điên điệp lại bốn lần trong lòng người đi, nỗi nhớ này chưa qua thì nỗi nhớ khác đã ùa về như lớp sóng miên man không dịu. Mỗi lần niềm nhớ rung lên là bao kỉ niệm ùa về, bao nghĩa tình được bồi đắp. Có thể nói nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất cả kí ức hoài niệm dấu yêu.

Chia xa mảnh đất mình từng gắn bó, ai mà chẳng nhớ chẳng thương. Thế nhưng hiếm có thi sĩ lại thể hiện nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, cháy bỏng khi dã từ chiến khu Việt Bắc giống như cách mà Tố Hữu đã làm:

“Nhớ gì như nhớ người yêu”

Một dòng thơ mà hai lần chữ “nhớ” được điệp lại. Nỗi nhớ cứ lơ lửng trời đi đến mức không thể kìm nén được. Lời thơ buông ám ảnh mãi tâm trí người đi ra với ngữ điệu hết sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như cảm thán tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc. “Như nhớ người yêu” là hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm nhận như nỗi nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn, có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thẳm. Nỗi nhớ về một miền đất tự nhiên trở nên thật gần gũi, thân quen. Cảm giác như miền đất ấy không còn vô tri nữa mà được thổi luồng sinh khí của sự sống. Một phép so sánh táo bạo tưởng chừng vô lý nhưng lại cực kỳ hợp lý. Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu thực sự là một tình nhân đắm đuối trước Việt Bắc, trước nhân dân đất nước mình. Cùng với những câu thơ:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Hay:

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Tứ thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu” đã đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong thơ ca cách mạng. Quả không sai khi Xuân Diệu nhận xét: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ thơ rất đỗi trữ tình”. Khám phá câu thơ: “Nhớ gì như nhớ người yêu”, ta bỗng vỡ lẽ hiểu ra rằng lối kết cấu đối đáp cùng cách xưng hô “ta – mình” trong Việt Bắc không đơn thuần là sáng tạo hình thức, là câu chuyện ngôn ngữ. Tình cảm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào chiến khu thiết tha, mặn nồng như tình đôi lứa khiến nhà thơ tìm đến cách cấu tứ xưng hô như vậy.

nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:

“Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Nhớ từng rừng nứa, bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Những câu thơ như một bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi, có những chiều tỏa nắng trên nương và hình ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh. Không miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với những người trong cuộc, chỉ chừng ấy thôi cũng đủ bồi hồi, xao xuyến biết bao. Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương:

“Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những cô gái nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan, những thiếu nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu cán bộ. Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân nồng đượm. Tình quân dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Cách nói “người thương” khéo léo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm dịu dàng mà nồng nàn, yêu thương. Kết thúc khổ thơ, tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi:

“Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.

Những địa danh gửi gắm bao nỗi nhớ niềm thương của một người sắp phải rời xa mảnh đất mình từng ngắn bó, có biết bao kỷ niệm thân thương, chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ cùng nhân dân cần lao. Nếu có một ngày trở lại mảnh đất này, lòng của người nghệ sĩ có lẽ sẽ vui mừng khôn xiết, giống như Chế Lan Viên đã từng viết:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

Có thể thấy, đoạn thơ đã thể hiện rõ nỗi nhớ da diết của người đi đối với Việt Bắc, đó là tấm lòng chân tình của cán bộ kháng chiến với Việt Bắc. Bằng thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển, hình ảnh trong sáng giản dị, gợi cảm, đoạn thơ đã tạo nên sức hấp dẫn đối với độc giả. Đọc đoạn thơ, ta thấy bịn rịn một tấm lòng nhớ thương da diết vô hạn.

Đối với mỗi người cán bộ cách mạng, khoảnh khắc phải chia xa Việt Bắc khó khăn vô cùng. Bởi nơi ấy, đã ghi dấu rất nhiều những ký ức không thể quên đi, những ký ức ấy một lần nữa được tái hiện trên trang thơ Tố Hữu:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Những dòng thơ đặc tả cuộc sống sinh hoạt đời thường của của đồng bào Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Cuộc sống ấy tuy nghèo khó nhưng là đồng bào Việt Bắc – họ là những con người giàu tình nghĩa. Họ sẵn sàng chia sẻ cho người cán bộ kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, mảnh “chăn sui”. Hình ảnh thơ thật mộc mạc, giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay xương máu, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày. Vật chất chẳng là đáng bao nhiêu nhưng nghĩa tình thì rất nặng. Từ đó, ta càng thấm thía tình quân dân keo sơn, bền chặt, giống như trong một vần thơ khác của Hoàng Trung Thông:

“Các anh về

Xôn xao làng tôi bé nhỏ

Nhà lá đơn sơ

Nhưng tấm lòng rộng mở

Nồi cơm nấu dở

Bát nước chè xanh

Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau”

Quả thực, cuộc sống những ngày ấy càng đậm tô tình quân dân như cá với nước, thân tình như trong đại gia đình lớn – dân tộc Việt Nam.

Đặc biệt, Tố Hữu không thể nào quên hình ảnh những người mẹ:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”

Hình ảnh những bà mẹ tần tảo, chịu thương chịu khó đã từng nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu. Có thể nói người mẹ là hình ảnh đẹp nhất của thơ Tổ Hữu. Thơ viết về mẹ, bài nào của Tố Hữu cũng xúc động: “Bà má Hậu Giang”, “Bà mẹ Việt Bắc”, “Bầm ơi!”, “Bà Bủ”, “Quê mẹ”, “Mẹ Suốt”… đều là những bài thơ hay của người nghệ sĩ này. Hình ảnh người mẹ trong thơ Tố Hữu là những người mẹ nghèo khổ, gắn bó với cách mạng, tham gia đấu tranh xã hội. Nói gọn lại là những người mẹ anh hùng. Trong tình cảm chung đó, có cảm xúc riêng dành cho người mẹ sinh thành vô cùng kính yêu của thi sĩ. Và trong “Việt Bắc” bạn đọc cũng hình dung ra hình ảnh người mẹ miền núi cõng con, cõng cả nắng trời cháy trên lưng trên rẫy bẻ từng bắp ngô, nuôi giấu cán bộ cứ trở đi trở lại trong thi phẩm. Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt Bắc. Người mẹ là nhân vật lịch sử góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của dân tộc nên thơ ca Việt Nam nhiều lần thổn thức bởi hình ảnh cái “lưng” của người mẹ:

“Bóng tròn che lưng mẹ

Nhớ về anh mẹ khóc”

(Bóng cây kơ nia – Ngọc Anh)

Hay trong những vần thơ khác:

“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”

(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ – Nguyễn Khoa Điềm)

Người mẹ Việt Bắc tảo tần, chăm chỉ, chịu thương chịu khó. Hình ảnh đẹp để ấy, những người cách mạng chẳng bao giờ có thể quên đi.

nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Đến sáu câu thơ tiếp theo, Tố Hữu đã khắc họa cuộc sống của đồng bào và những cán bộ chiến sĩ ở Việt Bắc đầy khó khăn gian khổ nhưng tinh thần lại rất lạc quan, yêu đời, gắn bó bên nhau. Ta bắt gặp những hình ảnh, âm thanh hết sức tiêu biểu cho sinh hoạt của người cán bộ và nhân dân Việt Bắc:

“Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ vẫn là nỗi nhớ, nỗi nhớ về những kỷ niệm gắn bó với đất và người Việt Bắc. Đó là những lớp học “i tờ” – lớp học bình dân học vụ nhằm xóa nạn mù chữ, mang ánh sáng văn hoá cho đồng bào Việt Bắc. Ta nhìn thấy trong hình ảnh này chính là lòng ham học hỏi của nhân dân lao động. Họ muốn đến gần hơn với Đảng, với cách mạng, thế nên dẫu cho việc học chữ là điều rất khó, họ vẫn quyết tâm. Đó là những “đồng khuya đuốc sáng” để liên hoan mừng tin thắng trận. và đặc biệt, hình ảnh người cán bộ các cơ quan ở chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp tuy sinh hoạt thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn “ca vang núi đèo”. Tiếng hát ấy thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào chiến thắng ở tương lai. Đồng thời cũng thể hiện chất lính dí dỏm, những tính cách đặc trưng của anh bộ đội cụ Hồ. Trong tiếng “ca vang núi rừng ấy”, có tiếng mõ trâu khua vang trên đường về bản làng trong các buổi chiều, tiếng cối giã gạo bằng sức nước cứ vang lên đều đặn trong rừng mỗi khuya tạo thành một bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc. Đây là những âm thanh riêng biệt, gợi nhớ về cuộc sống bình yên nơi đây. Có thể thấy, đó chính là những âm thanh tiêu biểu cho Việt Bắc, là loại nhạc cụ đặc trưng cho núi rừng Việt Bắc mà người cán bộ kháng chiến không thể nào quên. Tất cả làm nên một bài ca trong trẻo, tươi vui mà không một cuộc sống gian nan, khổ ải nào có thể dập tắt được.

3. Nghệ thuật nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Cả đoạn thơ mang ý nghĩa tổng kết những nét lớn trong quá trình diễn biến của cuộc kháng chiến chín năm trên đất nước ta. Đó là cuộc kháng chiến đầy hi sinh gian khổ, nhưng rất hùng tráng, lạc quan và nay thắng lợi vẻ vang. Với lối thơ lục bát ngọt ngào mang đậm tính dân tộc, dùng những hình tượng quen thuộc trong ca dao, những từ ngữ có sức gợi cảm, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ, và giọng thơ sôi nổi hào hùng mang chất sử thi. Tố Hữu đã gây một ấn tượng mạnh trong lòng người đọc về quê hương đất nước và con người Việt Nam dưới ánh sáng của cách mạng.

4. Đánh giá nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

Đặng Thai Mai từng nhận xét về thơ của Tố Hữu: “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ“. Có thể nói, Tố Hữu đã rất thành công, khi sử dụng thơ văn làm vũ khí đặc biệt để chống lại thực dân Pháp. Nhưng có điều rất đặc biệt là thơ văn của tuy viết về chính trị, nhưng vẫn rất ngọt ngào, trữ tình, da diết. Vì thế, mà người ta gọi ông là nhà thơ “trữ tình chính trị“. Nhà thơ Xuân Diệu cũng từng nói “Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên”. Việt Bắc còn là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam chống Pháp lúc bấy giờ.

Kết bài nhớ gì như nhớ người yêu ; Nhớ gì như nhớ người yêu chày đêm nện cối đều đều suối xa ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi ; nhớ gì như nhớ người yêu trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương

“Việt Bắc” là thi phẩm tiêu biểu nhất – được coi là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ của đời thơ Tố Hữu. Đây cũng là thi phẩm được đánh giá đậm đà tính dân tộc hòa chung với tính hiện đại rất phù hợp với phong cách thơ thường thấy của người nghệ sĩ này: Trữ tình – chính trị. Những câu thơ viết về sự kiện chính trị quan trọng, nhưng lại như lời thủ thỉ của đôi lứa uyên ương, gửi tình yêu về mảnh đất và con người Việt Bắc. Để làm nên những vần thơ gửi cả tình, cả cảnh, cả tinh thần ở lại như vậy tôi vẫn thường băn khoăn tự hỏi, Tố Hữu đã phải dành nhiều tâm huyết của mình đến thế nào. Và thế hệ hiện tại như chúng ta càng hiểu rằng, mình cần phải trân trọng những dòng thơ được viết ra khi “cuộc sống đã tràn đầy” ấy!

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

lediem.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *