lediem.net giới thiệu các bạn bài viết: Những người vợ nhớ chồng (Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm) ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng (Ngữ Văn 12). Hướng dẫn các bạn triển khai các luận điểm trong bài văn nghị luận về một đoạn thơ trong đoạn trích Đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Sau đây xin mời các bạn cùng tham khảo bài viết nhé!

Đề: những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

Đọc văn bản sau: những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

                                                           12 -1971

(Mặt đường khát vọng, NXB Văn nghệ Giải phóng, 1974)

những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

Gợi ý làm bài: những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

Mở bài những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tâm sự:

“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Đó là sự đúc kết của một quy luật nhân sinh, một sự kì diệu tâm hồn: Sự gắn bó với mỗi miền đất sẽ trở thành chính ta, một phần đời ta, là hành trang tinh thần không thể thiếu. Và phải chăng vì lý do này mà những vần thơ viết về quê hương đất nước luôn là những rung động thường trực trong tâm hồn người nghệ sĩ? Chính những rung động ấy đã thôi thúc Nguyễn Khoa Điềm chắp bút viết trường ca “Mặt trường khát vọng”. Một trích đoạn không thể không nhắc đến đó là “Đất Nước”.

Thân bài những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

1. Khái quát về tác giả, tác phẩm những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư và xúc cảm. Đất Nước là đoạn trích thuộc phần đầu chương V, của trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm được hình thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.

Thời điểm này miền Nam bị tạm chiến, đế quốc Mĩ và bọn tay sai ra sức chống phá cách mạng, mua chuộc thanh niên vào chốn ăn chơi mà quên đi trách nhiệm với đất nước. Viết trường ca này, Nguyễn Khoa Điềm nhằm đánh thức tinh thần trách nhiệm và giúp thế hệ trẻ tự nhận thức rõ hơn về vai trò và trách nhiệm của họ đối với đất nước. 

2. Phân tích nội dung những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

Lật giở từng trang trong lịch sử dân tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất Nước của nhân dân có nhiều biến chuyển trong mỗi thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất Nước gắn liền với kỳ niệm quân vương: “Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều đại: “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi. Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy vai trò to lớn của nhân dân đối với đất nước. Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách cho vua: “muốn đánh thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Phan Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh: “Dân là nước, nước là dân”. Thế nhưng không thể phủ nhận, trong Nam Quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt chủ thể sở hữu của đất nước là “Đế” tức là vua. Trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chủ thể của đất nước được xác định là các triều đại phong kiến. Các bài văn, thơ đầu thế kỉ XX xác định chủ thể của đất nước là các anh hùng. Còn Nguyễn Khoa Điềm lại xác định chủ thể của đất nước là nhân dân, và đây là nhận thức gắn với thời đại. Trong suy tưởng của mình, Nguyễn Khoa Điềm cho rằng địa lý là hóa thân của nhân dân; Lịch sử làm nên từ bàn tay của nhân dân; Văn hóa là làm nên từ cuộc sống nhân dân. Bước vào những trang thơ “Đất Nước” ta thấy Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa soi ngắm thật kỹ thật sâu vào các tầng địa lý, lịch sử và văn hóa của Đất Nước. Trước hết nhân dân là người làm nên không gian địa lý của dân tộc:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại  

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng
Trầu cau

Đất Nước gắn với truyền thuyết, cổ tích, mỗi địa danh đều tắm đẫm những huyền thoại, mỗi hiện tượng văn học dân gian đều nhằm giải thích hình thể của non sông, chứa đựng trong đó những ý nghĩa hết sức thiêng liêng về sự hóa thân của xương máu nhân dân trong quá trình tạo nên đất nước. Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông đều có xương máu của bao nhiêu thế hệ, đều chứa đựng những ước mơ của con người. Trong cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm – người đọc cảm nhận được những giá trị lịch sử, văn hóa phong phú đa dạng đã gợi lên cái hồn và sức sống của sông núi. Vì thế những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp thêm một dáng núi mà là câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào sông núi quê hương để làm nên một đất nước thủy chung, tình nghĩa. Đó là những hòn Trống Mái có được tạo hình từ sự hóa thân của những cặp vợ chồng yêu nhau để làm nên một đất nước nồng thắm, nhân tình. Đó còn là sự hiện thân của những người học trò nghèo thành núi Bút non Nghiên làm nên một đất nước nghìn năm văn hiến – tuy nghèo khó mà hiếu học. Những ao đầm để lại như dấu tích của đứa trẻ lên ba là tiếng nói của lòng yêu nước, tiếng nói đòi đi đánh giặc cho ta hình dung về một đất nước kiên cường chống giặc ngoại xâm. Những cái tên “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” gợi ra những bước chân mở cõi của bao thế hệ cha ông ngày trước. Có thể thấy, trên khắp đất nước, những con người bình dị đã hóa thân vào sông núi để lại cho đời những cái tên bất tử. Tấm bản đồ đất nước được phác họa từ Bắc chí Nam, trở thành tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi ký thác tâm hồn, ước mơ, khát vọng của nhân dân. Đất nước vừa thiêng liêng, cao cả vừa gần gũi. Trong không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm ra bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam. Vậy là trong mạch suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm, không gian quê hương không phải do thiên nhiên tạo hóa ưu đãi mà hình thành, không gian đất nước, quê hương được hình thành từ chính cuộc đời, sự sống và tâm hồn con người. Điều đặc biệt ta nhìn thấy trong trang thơ ấy là hình hài của đất nước được lý giải qua những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích xa xưa. Quê hương có thể có tên, có thể không tên, nhưng trong mạch suy tưởng của người nghệ sĩ lại gợi nhắc tới công lao của những con người vô danh bằng một loạt các danh từ chung: người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, người dân…Các danh từ được sử dụng để biểu đạt ý tưởng là những con người vô danh lại làm nên cái hữu danh cho đất nước. Điệp từ “góp” được sử dụng là sự nhấn mạnh, trân trọng của nhà thơ nhằm ghi nhận và ca ngợi những đóng góp của nhân dân trong hình hài đất nước. Nhân dân chính là người nghệ sĩ đã sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm đẹp thêm thắng cảnh thiên nhiên. Nhân dân thổi hồn vào cảnh vật vô tri để thiên nhiên lưu giữ câu chuyện về phần đời của họ. Và tự hoá thân cụ thể ấy, Nguyễn Khoa Điềm đưa tới một nhận định có ý nghĩa khái quát chung:

“Và ở đâu trên khắp đồng ruộng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

Ở phần đầu nhà thơ đã liệt kê các địa danh cụ thể thì ở đây nhà thơ lại thay bằng “khắp ruộng đồng gò bãi” – đây là không gian gắn với cuộc sống của người lao động. Từ đó tác giả đưa ra khẳng định không chỉ có những danh lam thắng cảnh mới là kết quả của sự hóa thân con người mà bất kì khoảng không gian nào trên khắp đất nước quê hương ta dù hữu danh hay vô danh, dù đã được nhiều người biết đến hay vẫn lặng lẽ tồn tại thì cũng là kết quả sự hóa thân của những con người, của những cuộc đời. Và khi con người khi hóa thân thành đất nước, quê hương thì con người không phải là tan biến đi như những hạt cát vô danh mà đã để lại dấu ấn về sự tồn tại của mình trong chính hình sông, dáng núi. Vóc dáng núi sông đã mang chứa trong đó cả dáng hình, cả ao ước, cả lối sống ông cha cho không chỉ đơn thuần là những gì chúng ta nhìn thấy. Như vậy, theo cách lý giải của Nguyễn Khoa Điềm, núi sông, bờ cõi, không gian của đất trời, quê hương là kết quả của 4000 năm bồi đắp hình thành, là kết quả của những hi sinh dâng hiến và là kết quả của những cuộc hóa thân thầm lặng. Và không gian địa lý, lãnh thổ ấy chính là do nhân dân tạo nên.

3. Nghệ thuật những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.

những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng
Hòn vọng phu

Kết bài những người vợ nhớ chồng  ; những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước ; Dàn ý đoạn những người vợ nhớ chồng ; cảm nhận về đoạn thơ những người vợ nhớ chồng

Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một hình ảnh đất nước được lý giải với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày xưa. Có những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian tình tứ như chuyện tình của đôi lứa, uyên ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn trong trích đoạn “Đất Nước” của mình. Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm con người xích lại gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ Quốc. Tình yêu và trách nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là quyết tâm của cả một thời đại: “Thời đại của chúng tôi là thời đại của những thanh niên xuống đường chiếm lĩnh từng tầng cao của mái nhà, của ngọn đồi, của nhịp cầu để bắn toả lương tâm lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai).

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *