Giới thiệu đến các bạn bài viết Soạn bài kiểm tra: Chiều hôm nhớ nhà (Bà Huyện Thanh Quan) , trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà (Bà Huyện Thanh Quan) (10 CÂU HỎI, Đề kiểm tra). Ở đây, chúng tôi sẽ cùng các bạn, tìm hiểu các câu hỏi trắc nghiệm kết hợp với tự luận. Đề được biên soạn, sưu tầm theo hướng mới – chương trình 2018.  Mời các bạn cùng tham khảo.

Đề: chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Đọc hiểu: 6,0 điểm  chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Đọc văn bản sau: chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Chiều hôm nhớ nhà

(Bà Huyện Thanh Quan)

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vắng trống dồn.

Gác mái, ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Lựa chọn đáp án đúng:   chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Câu 1. Bài thơ được viết theo thể loại nào?

  1. Thất ngôn bát cú
  2. Thất ngôn tứ tuyệt
  3. Thơ tự do
  4. Song thất lục bát

Câu 2. Bài thơ có sử dụng những phương thức biểu đạt nào?

  1. Tự sự, nghị luận, biểu cảm.
  2. Biểu cảm, thuyết minh, tự sự.
  3. Biểu cảm, miêu tả, tự sự.
  4. Miêu tả, tự sự, nghị luận.

Câu 3. Bài thơ nào sau đây có nét tương đồng về thời gian nghệ thuật với bài Chiều hôm nhớ nhà?

  1. Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến).
  2. Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan).
  3. Vịnh khoa thi Hương (Trần Tế Xương).
  4. Xa ngắm thác núi Lư (Lý Bạch).

Câu 4. Hai câu thơ: “Gác mái, ngư ông về viễn phố/ Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”, tác giả sử dụng biện pháp tu từ gì?

  1. Đảo ngữ
  2. Nhân hoá
  3. Ấn dụ
  4. So sánh

Câu 5. Bài thơ được gieo vần gì?

  1. Vần lưng
  2. Vần liền
  3. Vần chân
  4. Vần cách

Câu 6. Hai câu thơ sau biểu đạt được điều gì?

“Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”

  1. Khắc hoạ những hình ảnh bình dị của người dân lao động nơi thôn quê; giúp người đọc cảm nhận được nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương trong lòng người khách tha phương.
  2. Khắc hoạ hình ảnh ông ngư gác mái chèo về bến xa, chú mục đồng gõ sừng (trâu) về thôn xóm; giúp người đọc hình dung được cuộc sống thảnh thơi, an nhàn của những người dân quê.
  3. Khắc hoạ những hình ảnh bình dị của người dân lao động nơi thôn quê; giúp người đọc hiểu được nỗi niềm xót xa trong hoàn cảnh li tán của người lữ khách.
  4. Khắc hoạ hình ảnh ông ngư gác mái chèo về bến xa, chú mục đồng gõ sừng (trâu) về thôn xóm; giúp người đọc hình dung được nhịp sống nhàm chán, buồn tẻ của những người dân quê.

Câu 7.

Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhờ” đã thể hiện được vẻ đẹp gì trong phong cách sáng tác thơ của Bà Huyện Thanh Quan?

  1. Hình ảnh thơ tự nhiên, giọng điệu hùng hồn, đanh thép.
  2. Hình ảnh thơ sinh động, giàu cảm xúc; giọng thơ sôi nổi, hào hùng.
  3. Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân.
  4. D.Trang nhã, đậm chất bác học và mang niềm hoài cổ.

Câu 8. Nội dung chính của bài thơ là?

  1. Bài thơ thể hiện tâm trạng hân hoan, vui sướng khi nhớ về quê nhà, về những kỉ niệm đẹp của người lữ khách.
  2. Bài thơ thể hiện tâm trạng sầu thương tê tái của người lữ khách xa quê, nhớ nhà, nhớ quê.
  3. Bài thơ thể hiện nỗi niềm tâm sự xót xa, tâm trạng buồn đau của người lữ khách khi phải tha hương.
  4. Bài thơ thể hiện sự hoài niệm của người lữ khách về những trang lịch sử hào hùng của dân tộc.

Câu 9. Liệt kê một số từ Hán – Việt có trong bài thơ và rút ra nhận xét về sắc thái biểu cảm của các từ Hán – Việt đó?

Câu 10. Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” đã thể hiện được tâm trạng gì của chủ thể trữ tình? (Trình bày bằng một đoạn văn khoảng 3-5 câu)

 chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Phần tự luận   chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Phân tích truyện ngắn “Khi còn có mẹ” của nhà văn Vũ Thị Huyền Trang.

KHI CÒN CÓ MẸ

(Trích)

Diệu trở về nhà sau một ngày làm việc vất vả, cảm thấy không còn sức lực. Chồng con đã ngủ ngon trong căn phòng thơm tho mát rượi. Diệu ngồi bệt xuống sàn nhà, ngồi tựa lưng vào tường, nước mắt cứ thế trào ra. Diệu nhớ mẹ quá, cơn nhớ lúc nào cũng đầy ắp trong lòng chỉ chực chờ được òa ra nức nở. Nhìn quanh từng ngóc ngách trong nhà chỗ nào cũng thấy bàn tay mẹ dọn dẹp, lau chùi. Bóng dáng mẹ tất tưởi lo toan. Đồ vật mẹ mua tặng vẫn còn mới cóng. Từ cái bát ăn cơm có in hình những bông hoa đồng nội mà Diệu thích. Đồ nấu bếp bằng gỗ Kim Giao mẹ đặt mua của đồng bào dân tộc tận Lạng Sơn. Đến chăn ga gối đệm mềm êm cho Diệu đỡ đau lưng mỏi cổ. Cả đời mẹ chưa từng có ngôi nhà của riêng mình, chỉ suốt đời chăm chút cho con cháu. Đến lúc nhắm mắt xuôi tay mẹ nương tựa cửa chùa theo đúng ước nguyện khi còn sống. Mẹ nhẹ bẫng, chỉ còn lại nắm tro tàn nằm trong hũ sứ. Mẹ vẫn còn trẻ lắm, mới ngoài năm mươi tuổi. Hôm tìm thấy mẹ trên sân thượng đầy hoa Diệu chỉ nghĩ mẹ nằm nghỉ một lúc rồi sẽ dậy. Nhưng mẹ đã đi đến một thế giới khác bằng nụ cười cơ cực trên môi. Chỉ màu áo hoa cà nhức nhối trong tâm thức Diệu…

Diệu điện cho Thuần cốt để tìm một người lắng nghe mình nói chứ không phải để nhận được những lời an ủi. Có những nỗi mất mát càng vỗ về thì lại càng đau đớn.

(…)

– Đêm qua tớ thấy mẹ về. Không phải trong giấc mơ đâu. Mà thấy mẹ nằm kề bên tớ. Lúc bé Na thức giấc giữa đêm mẹ còn dỗ cháu. Tớ còn nghe ngọt ngào bên tai lời ru à ơi cái bống. Sáng thức giấc còn thấy vài sợi tóc mẹ rơi trên chăn gối. Vậy mà…

– Mẹ vẫn sẽ luôn bên cậu đấy thôi, ngay cả khi bà không hiện hữu.

– Nhưng tớ ân hận lắm. Lúc mẹ còn sống tớ đã không hay đưa mẹ đi khám bệnh. Toàn để mẹ tự đi một mình nên bao nhiêu bệnh tật trong người mẹ toàn giấu nhẹm. Tớ còn chưa kịp đưa mẹ về thăm quê, đi du lịch. Ngày xưa mẹ tớ chỉ ước đẻ được cô con gái để nhờ nhổ tóc sâu thôi đấy. Thế mà mấy hôm trước khi mất, mẹ nhờ nhổ tóc mà tớ cứ bận bịu việc này việc kia. Nghĩ lại thấy không biết đã bao lâu rồi tớ không có thời gian dành cho mẹ.

(…)

Bố mẹ ly hôn khi Diệu còn rất nhỏ. Dù bà nội ôm ghì ba chị em Diệu trong tay bảo “ở với bà, rau cháo nuôi nhau”. Nhưng mẹ gạt nước mắt một tay bế thốc thằng út, một tay lôi chị em Diệu đi trong buổi chiều hoàng hôn màu huyết dụ. Bốn mẹ con nương tựa vào nhau trong xóm ngụ cư ở ven sông. Ở nhờ nhà bà Sáu, trước cửa có cây mít già sai quả, đằng sau có những chùm khế ngọt chín vàng ươm. Có người thương từng xin Diệu làm con nuôi nhưng mẹ bảo “tôi đẻ con ra đâu phải để mang cho người khác”. Diệu bên mẹ đến mức cử lẽo đẽo theo sau, hết chợ sớm đến chợ chiều chân không ngừng bước. Mẹ lên tàu đi lấy hàng khô dưới miền xuôi về bán ở chợ ven sông Diệu cũng đòi theo. Hai mẹ con thường ngồi ngủ bên những người lao động nghèo giữa linh kinh đồ đạc và mùi cá khô bốc lên tanh nồng mằn mặn. Diệu vẫn nhớ những đêm nằm bên mẹ, nhìn qua cửa sổ ngắm trăng sáng vằng vặc trên ngọn cau, nghe bà Sáu già họ khan trò chuyện cùng con chó nhỏ. Cảnh tượng bình yên ấy vẫn không thôi khiến mẹ đau đáu nghĩ về những ngày sau. Mẹ ước ao có đủ tiền mua đất dựng nhà. Mẹ không muốn các con sống cuộc đời trôi dạt…

Năm Diệu mười sáu tuổi thì cả nhà xuống thị xã, thuê một sạp hàng vừa ở vừa buôn bán. Ban ngày toàn bộ diện tích sạp hàng được bày giày dép và quần áo để bán. Ban đêm mấy mẹ con chất hàng vào một đống kê sát giường nằm ngủ. Chật chội là thế mà vẫn thấy mẹ vui vì kiếm đủ tiền nuôi mấy anh em ăn học. Mẹ bị bệnh đau đầu có lẽ cũng vì phải ngửi nhiều mùi nhựa dép, mùi vải vóc. Diệu thì không thấy vui vì nghĩ cuộc đời mấy mẹ con sao mà cơ cực quá. Ngủ ở sạp hàng giữa chợ mùa đông còn đỡ, chứ mùa hè nóng chảy mỡ. Quạt chạy hết công suất cũng không đủ xua đi cái nóng hầm hập từ dưới nền xi măng bốc lên, từ mái tôn dội xuống. Tầm bốn giờ sáng chợ đã bắt đầu nhộn nhịp. Các chủ sạp hàng rau củ quả, thịt thà đã mang hàng đến đổ đống chờ người đến cân buôn. Mẹ dậy từ lúc ấy để mua được đồ ăn vừa tươi vừa rẻ. Có khi kiếm được mối mẹ còn tranh thủ mua đi bán lại kiếm lãi vài đồng. Suốt mấy chục năm trong kí ức của Diệu mẹ chưa từng có đêm nào ngủ tròn giấc mộng.

Sau này khi ba chị em Diệu đều trưởng thành, có công ăn việc làm ổn định và đều đã xây dựng gia đình. Mẹ lại bắt đầu vun vén cho mái ấm riêng của các con. Đứa nào mẹ cũng bảo “phải có cái nhà con à, giàu nghèo, to nhỏ gì cũng phải có nơi được gọi là nhà”. Vốn liếng có bao nhiêu mẹ chia cho mỗi đứa một ít lúc mua đất làm nhà. Rồi lại tự tay sắm sửa hết thứ này đến thứ khác cho con cháu đủ đầy.

Nửa đêm Diệu hay ngửi thấy mùi xôi lạc, xôi sắn. Bụng cồn cào một cơn đói cũ. Dù Diệu biết giờ này xung quanh chẳng còn ai thức và thứ mùi vị ấy thực ra là ngửi thấy bằng tim, bằng nỗi nhớ gọi về kỉ niệm. Khi mấy mẹ con cùng sống ở sạp hàng, những đêm lạnh Diệu thường kêu đói. Mẹ sẽ dậy nấu xôi bằng bếp than đặt bên ngoài ngõ chợ. Chị em Diệu ngồi ngó gió thổi lệt xệt đám túi ni lông dồn lại một góc chợ. Nói với mẹ về ao ước được sống trong một ngôi nhà thật đẹp. Để mùa mưa không phải sợ nước tràn vào nhà như cảnh đời ở chợ. Diệu nhớ đến đó thì Thuần gọi kể:

– Dạo này tớ ốm, hai đứa nhỏ cũng mũi nhãi quấy khóc suốt ngày. Công việc thì áp lực, tiền bạc thì túng thiếu thành ra tớ hay cáu gắt với mẹ. Tệ thật.

– Đừng vậy cậu ơi. Khi còn có mẹ…

Mấy từ “khi còn có mẹ” làm cả hai đau điếng. Một bên là sự mất mát đang hiện hữu. Còn một bên là sự mất mát mơ hồ đâu đó vừa xa lại vừa gần. Mẹ như lá vàng trên cành, như chuối chín cây, như hoa tàn lắt lay ngày gió. Nên khi còn có mẹ kề bên xin hãy yêu thương mẹ. Để một mai khi mẹ đã về trời sẽ chỉ còn những kí ức êm đềm, tươi đẹp. Thuần nói đúng, Diệu sẽ không khóc nữa. Sẽ cố gắng sống vui, sống khỏe để mẹ được yên lòng tiêu diêu miền cực lạc. Giờ thì Diệu nhằm mắt để lần tìm theo hương tóc mẹ. Ngày mai, Diệu sẽ dắt theo con gái nhỏ lên chùa thăm mẹ. Chùa nằm trên núi…

chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà
Bà Huyện Thanh Quan

Gợi ý trả lời  chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Lựa chọn đáp án đúng:  chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

Câu 1. A. Thất ngôn bát cú

Câu 2. C. Biểu cảm, miêu tả, tự sự

Câu 3. B. Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan)

Câu 4. A. Đảo ngữ

Câu 5. C. Vần chân

Câu 6. A. Khắc họa những hình ảnh bình dị của người dân lao động nơi thôn quê; giúp người đọc cảm nhận được nỗi nhớ nhà, nhớ quê trong lòng người khách tha phương.

Câu 7. D. Trang nhã, đậm chất bác học và mang niềm hoài cổ.

Câu 8. B. Bài thơ thể hiện tâm trạng sầu thương tê tái của người lữ khách xa quê, nhớ nhà, nhớ quê.

Câu 9.  chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

– Một số từ Hán – Việt trong bài thơ: hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, mục tử, cô thôn, lữ thứ, hàn ôn.

– Nhận xét: Các từ Hán – Việt vừa tạo sắc thái trang trọng, tao nhã, tinh tế vừa tạo ra sắc thái cổ, phù hợp với xã hội xưa.

Câu 10.   chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

* Về hình thức: Đảm bảo thể thức và dung lượng của một đoạn văn theo yêu cầu của đề bài. Viết đúng ngữ pháp, chính tả.

* Về nội dung: Học sinh có thể cảm nhận tâm trạng của chủ thể trữ tình trong bài thơ theo gợi ý sau:

– Đó là một tâm trạng buồn lê thê, một niềm sầu thương tê tái của khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết.

– Bài thơ chính là một niềm tâm sự, được giãy bày khi đi tới vùng đất lạ của người lữ thứ (đó cũng là tiếng lòng của nhà thơ).

 

Phần tự luận   chiều hôm nhớ nhà, trắc nghiệm chiều hôm nhớ nhà

->  Phân tích đánh giá truyện ngắn Khi còn có mẹ. 

Phân tích đánh giá truyện: KHI CÒN CÓ MẸ 

DANH SÁCH các bài ĐỌC HIỂU

lediem.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *