Giới thiệu đến các bạn bài viết: Những dặm đường xuân (Băng Sơn) ; Trắc nghiệm Những dặm đường xuân (Băng Sơn) (10 CÂU HỎI, Đề kiểm tra). Đây là đề kiểm tra tự luận kết hợp trắc nghiệm, được thiết kế theo hướng chương trình mới năm 2018. Và cũng là một tài liệu quan trọng dành cho các bạn học sinh làm quen và thích nghi với các thay đổi trong giảng dạy và kiểm tra theo chương trình mới. Bài viết còn giúp các bạn tăng cường kiến thức và kỹ năng, đồng thời giúp học sinh làm quen với cách làm bài trong các đề kiểm tra mới.

Đề: 

I. ĐỌC (6,0 điểm) những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Đọc văn bản: những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

NHỮNG DẶM ĐƯỜNG XUÂN

Băng Sơn

Thế là tháng củ mật sắp hết, tháng mà mỗi ngày “chưa cười đã tối” vì mùa đông, mặt trời thích ẩn vào mây cho ấm sớm mà cũng vì cái Tết đang xình xịch đến sau lưng, tháng mà ai cũng phải vội vàng hối hả, tất bật như vội ra ga không thì con tàu mình đi sắp chuyển bánh khởi hành, mau lên kẻo lỡ chuyến tàu đời…

Người xa quê ơi, sao đến hôm nay sắp năm cùng tháng tận mà người mãi chưa về, còn mải mê vui thú đường xa hay đang ê chề nỗi gian lao vất vả không dám về quê vì vẫn chỉ bộ quần áo tàng tàng rung rúc, không được ai xênh xang xe, ngựa, có cành hoa giấy trang kim, có gói bánh cốm lá xanh lạt đỏ biếu cô dì chú bác, không có đồng tiền cho vợ may cái yếm mới đón xuân… nên người tủi phận, tự mình lẩn tránh thân mình, tự mình lừa hồn mình, khất lần ngày về nơi chôn rau cắt rốn.

Người đâu biết rằng mọi con đường to nhỏ như mạch máu, những phát huyết quản hồi huyết quản, vi ti huyết quản, những con đường cái quan, đường huyện, đường làng, đường trục, đường mương, đường rẽ xương cá vào ngõ nhỏ,… đã in hằn chồng xếp bao nhiều bước chân, nào người đi, người về, nào sắm Tết, bán mua, nào vay mượn, trả nợ, cả vui lẫn lo toan, bấm đầu ngón chân xuống đất trơn cho khỏi ngã, lê chiếc dép mòn tung bụi, gánh nặng lõm đất, rênh rang chơi nhởi vì đã có người vợ hiền mẹ đảm lo cho hết, nên cứ khăn áo chỉnh tề, ô che mũ đội mà đi tìm bạn, tìm hoa, bạn rượu hay bạn cờ, hoa đào hay hoa cúc,…

Tết ơi, giá mỗi năm có mười cái Tết thì chắc con người phải bạc đầu từ trẻ, nhưng nếu mười năm mới có một Tết thì chắc hồn người cũng sẽ ủ ê không biết nhường nào […].

Phiên chợ cuối năm đã họp kín người, xế chưa tan. Đắt hàng thế là chị bán hàng vàng hương, vàng hồ, vàng hoa, mũ ông Công, ông Táo, hương đen, hương vàng, hương trầm, hương sạ, hương sào, hương vòng, nến trắng, nến đỏ. Không hiểu sao ngồi cạnh chị ngay ngoài đầu chợ, bao giờ cũng có bà trầu vỏ kèm bên. Bà cụ đã móm, hình như bà ngồi đây đã mấy trăm cái Tết, nên chiếc vồ chặt vỏ, nguyên là cả khúc gỗ mít, gỗ nhãn đã xơ ra, tướp hết, thành cái chày thắt ngẵng, như sắp gãy ở quãng giữa ấy. Những thanh vỏ chay ngon lành thế, cô con gái biếu mẹ, vì lấy chồng xa, chị con dâu hiền thảo mua cho mẹ chồng ăn Tết, mỗi thanh còn vỏ au đỏ mỏng tang như làm bằng giấy bản nhuộm hồng, những thanh vỏ quạch,  từng khúc nâu xỉn, như từng khúc lưng con rắn rừng nằm chờ thân phận được quyết định về với Tết nhà ai, nghèo khó nơi bìa làng, thiếu thốn nơi ngõ trại,…

Có người ao ước, giá quanh năm, chợ lúc nào cũng vui như phiên này, rủng rỉnh như phiên này… mát mặt biết bao nhiêu, thay cơm hẩm cà kho bằng câu “ba mươi Tết có thịt treo trong nhà…”.

Ngoài đồng, lúa đã kín những mặt gương long lanh. Lạy trời, hãy mưa thuận gió hoà, đừng đổ về những cơn gió mùa đông bắc làm chết cá trong ao, phải lấy rơm hun khói, phải cấy lại thì khổ kiếp người, làm Tết mất vui.

Con chim khách báo đúng hay báo nhầm, cành tre đầu nhà đung đưa, bước chân người rộn rã, nó nghe, nó ngửi, nó nhìn, nó cảm,… nó báo tin càng làm trái tim chờ đợi thắc thỏm, mong có bóng người xuất hiện đầu đê, vào đường gạch, đứng trước chiếc cổng tre chống lên quen thuộc thân thương… Tết làm lòng nhau mở cửa hay bắt nó đóng lại nỗi quạnh hiu cô quạnh? Tuỳ người đấy, ai ơi…

Ngoài đình, ngoài chùa, mái quán chơ vơ trên đồng, bờ giếng tròn xây… đã được mặc tấm áo trắng tinh, trắng lốp bằng nước vôi mới quét, càng kéo cái Tết đến gần, như đã sờ thấy nó, nó đã vào đến làng, đến cổng rồi kìa…

Hình như từ sâu thẳm tâm can, mỗi con người đều được cái Tết thúc gọi, cấy vào đẩy chiếc mầm cây mới, gieo vào đấy cái hạt nở ra cây hi vọng. Bận rộn mà vui, hối hả vẫn tươi cười… để có niềm hạnh phúc chờ mong mơ ước. Đôi câu đối giấy hồng điều trên cột, đôi cây mía tím, mía voi làm gậy ông vải hai bên bàn thờ, tờ tranh ông Phúc, ông Lộc dán hai bên cánh cửa, con gà mắt trong veo, con lợn gặm cây khoai ráy, chị tốc váy hứng dừa, anh đánh ghen rúc rích thứ tranh Đông Hồ bán đầy chợ Tết, bày la liệt mặt đất,… cho đến tranh y môn, mâm bồng ngũ quả bán ngoài thành phố,… bức tranh lụa hay sơn dầu quý phái bạn hoạ sĩ tặng ta treo Tết,… chẳng là hi vọng cái mới sẽ sang đấy sao? […]

Ta trở về những nẻo đường xuân ríu rít, càng nhận ra cần phải trở thành con người hữu ích ra sao, chí ít là cho bản thân bé nhỏ của ta không phải phiền nhiễu đến bao người khác, mong sao ông chánh án thất nghiệp, anh công an nhàn rỗi mà rong xuân, bà thẩm phán cứ dắt con đi công viên, và cái tháng củ mật ngàn năm mịt mùng kia yên bình bất chấp mưa kim châm hay gió cắt thịt…

Hẳn những giây phút này đây, ông Táo trên trời đã trở về trái đất. Ông lĩnh nhiệm vụ mới Thiên đình giao cho ra sao, sẽ khuyên nhủ gia chủ ăn ngay ở thẳng thế nào, cho ba trăm sáu mươi ngày đều vui như ngày hội, cho cô gái tựa tóc vào vai người yêu, cho chàng trai soi vào mắt người tình mà run quả tim trong sạch, cho con chim khách không bao giờ sai, cho những chú bé đi “hôi” cá cứ cười như nắc nẻ, dù chỉ được con tôm hay chú cá rô ron, cho chợ Tết người chen người, cho đồng lúa rờn rờn bát ngát, cho những con người lầm lạc sớm hoàn lương,…

Thành phố nơi ta ở, làng xa nơi mẹ ta chờ,.. xuân đã sang ở cả hai nơi. Giờ này, những nẻo đường xuân, bao nhiêu con tàu đang hối hả đích tới, chở theo những trái tim hồi hộp, những cành hoa và những gói quà Tết, mứt sen hay rượu cúc, bánh cốm hay trà sen,… tàu cứ đi đi, mùa xuân còn dài, còn dài như đời ta, như đất nước, như vũ trụ…

(Hà Nội rong ruổi quẩn quanh, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2016, trang 40, 41, 43, 47)

 

* Tác giả, tác phẩm:

Băng Sơn (1932 – 2010) tên khai sinh là Trần Quang Bốn, quê ở huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam nhưng sinh ra tại thị trấn Cẩm Giàng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông là nhà văn chuyên viết về Hà Nội, là tác giả của nhiều tập tuỳ bút, bút kí được nhiều người yêu thích. Các tác phẩm viết về Hà Nội của Băng Sơn đã tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc: Thú ăn chơi người Hà Nội (4 tập) (1993), Nước Việt hồn tôi (1995), Nghìn năm còn lại (1996), Đường vào Hà Nội (1997), Dòng sông Hà Nội (2002),…

những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Lựa chọn đáp án đúng

Câu 1. Văn bản được viết theo thể loại nào?

  1. Truyện ngắn
  2. Tuỳ bút
  3. Tiểu thuyết
  4. Bút kí

Câu 2.

Thời điểm nào trong năm gợi cảm hứng sáng tác cho tác giả?

  1. Những ngày cuối đông, đầu xuân
  2. Những ngày cuối hạ, đầu thu
  3. Những ngày cuối xuân, đầu hạ
  4. Những ngày cuối thu, đầu đông

Câu 3.

Những biện pháp tu từ nào được sử dụng trong câu văn “Hình như từ sâu thẳm tâm can, mỗi con người đều được cái Tết thúc gọi, cấy vào đấy chiếc mầm cây mới, gieo vào đấy cái hạt nở ra cây hi vọng”?

  1. So sánh và nhân hoá
  2. Ẩn dụ và so sánh
  3. Nhân hoá và ẩn dụ
  4. Phép đối và phép điệp

Câu 4. Trong văn bản, nội dung nào dưới đây không được nhắc đến?

  1. Những gia đình nghèo cảm thấy lo lắng vì không có tiền để sắm sửa, chuẩn bị Tết
  2. Sự bận rộn, hối hả của mỗi gia đình khi trang trí nhà cửa, chuẩn bị cho ngày Tết
  3. Những người xa quê cảm thấy hối hả, giục giã, mong sớm được trở về quê ăn Tết
  4. Khung cảnh làng xóm thay đổi, trở nên tươi mới, đẹp đẽ hơn vì được sửa sang trước Tết

Câu 5. Đoạn trích “Ta trở về … lầm lạc sớm hoàn lương.” biểu đạt nội dung gì?

  1. Mùa xuân thường mang đến cho mỗi người những cảm giác khác nhau, không ai giống ai.
  2. Mong ước của nhân vật trữ tình về những điều tốt đẹp sẽ đến cùng với mùa xuân vị trên quê hương.
  3. Khi xuân đến, con người thường trở nên nhạy cảm và tinh tế hơn trước những biến chuyển của đất trời.
  4. Mỗi người đều cần phải cố gắng để hoàn thiện bản thân mình trở nên tốt hơn khi mùa xuân đến.

Câu 6.

Phát biểu nào dưới đây nêu đúng nhất nội dung chính của văn bản?

  1. Những suy tư, trăn trở của con người vào thời điểm Tết sắp đến gần và chứng kiến những thay đổi của mùa xuân quê hương.
  2. Niềm mong ước được trở về quê hương của một người con xa quê lâu ngày chưa được về khi nhìn thấy mọi người chuẩn bị Tết.
  3. Không khí hối hả, giục giã khi mùa xuân đến được cảm nhận ở nhiều khía cạnh khác nhau qua nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê.
  4. Sự háo hức, đợi chờ được đón mùa xuân mới của nhân vật khi nhìn thấy tín hiệu của mùa xuân trên quê hương mình.

Câu 7. Phương án nào dưới đây không phải là nét đặc sắc nghệ thuật của văn bản?

  1. Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, liên tưởng phong phú, độc đáo
  2. Sáng tạo trong lời văn, xen kể và tả; giọng điệu chậm rãi, thủ thỉ, tâm tình
  3. Kết hợp tài hoa biểu cảm với miêu tả, trình bày nội dung theo mạch cảm xúc lôi cuốn
  4. Miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, sử dụng nhiều từ ngữ độc đáo, câu văn linh hoạt

Trả lời câu hỏi sau: những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Câu 8. Kể tên một văn bản văn học viết về đề tài mùa xuân. Nêu rõ thể loại và tác giả của văn bản đó.

Câu 9. Khung cảnh làng quê khi mùa xuân đến được miêu tả trong văn bản như thế nào?

Câu 10. Chọn một câu văn có sử dụng biện pháp tu từ liệt kê trong văn bản. Chỉ ra biểu hiện và phân tích ngắn gọn giá trị của biện pháp này trong câu văn đã chọn.

II. Phần viết những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Chọn một trong hai đề bài sau:

Đề bài 1: Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của mùa xuân quê hương được thể hiện trong văn bản Những dặm đường xuân (Băng Sơn).

Đề bài 2: Trình bày suy nghĩ của em về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc gìn giữ những nét đẹp bản sắc văn hoá dân tộc.

 những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Gợi ý trả lời những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Câu 1. B Tuỳ bút

Câu 2. A Những ngày cuối đông, đầu xuân

Câu 3. C Nhân hoá và ẩn dụ

Câu 4. A Những gia đình nghèo cảm thấy lo lắng vì không có tiền để sắm sửa, chuẩn bị Tết

Câu 5. B Mong ước của nhân vật trữ tình về những điều tốt đẹp sẽ đến cùng với mùa xuân vị trên quê hương.

Câu 6.  C Không khí hối hả, giục giã khi mùa xuân đến được cảm nhận ở nhiều khía cạnh khác nhau qua nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê.

Câu 7. D Miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, sử dụng nhiều từ ngữ độc đáo, câu văn linh hoạt

 

Trả lời câu hỏi sau: những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Câu 8. Học sinh kể tên một văn bản viết về đề tài mùa xuân, nêu thể loại và tác giả của văn bản đó. Ví dụ: bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), tuỳ bút Tháng Giêng mơ về trăng non rét ngọt (Vũ Bằng),…

Câu 9. Khung cảnh làng quê khi mùa xuân đến:

– Cảnh con người tấp nập chuẩn bị Tết: Mọi người ở khắp các nẻo đường đi mua sắm Tết, vay trả nợ,… Phiên chợ cuối năm họp kín người.

– Khung cảnh đường làng cũng được sửa sang, thay đổi chuẩn bị đón Tết: Ngoài đình, ngoài chùa, mái quán chơ vơ trên đồng, bờ giếng tròn xây… đã được mặc tấm áo trắng tinh, trắng lốp…

Ngoài đồng, lúa đã kín những mặt gương long lanh,…

Câu 10.

 – Học sinh chọn và chỉ ra được biểu hiện của biện pháp tu từ liệt kê trong câu văn đã chọn. Ví dụ một số câu sau đây:

+ Người đâu biết rằng mọi con đường to nhỏ như mạch máu … bạn rượu hay bạn cờ, hoa đào hay hoa cúc,…

+ Người xa quê ơi, sao đến hôm nay … về nơi chôn rau cắt rốn.

+ Đắt hàng thế … hương vòng, nến trắng, nến đỏ.

– Tuỳ câu văn đã chọn, học sinh chỉ ra được biểu hiện và tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng.

Ví dụ: Biểu hiện và tác dụng của biện pháp liệt kê trong câu văn “Đắt hàng thế … hương vòng, nến trắng, nến đỏ.”:

+ Biểu hiện: Tác giả đã liệt kê hàng loạt các món hàng được bày bán trong phiên chợ đông đúc: vàng hương, vàng hồ, vàng hoa, mũ ông Công, ông Táo, hương đen, hương vàng, hương trầm, hương sạ, hương sào, hương vòng, nến trắng, nến đỏ.

+ Tác dụng: Tô đậm không khí buổi chợ phiên cuối năm đông đúc với nhiều món hàng được bày bán khắp nơi để phục vụ cho người dân chuẩn bị đón Tết; câu văn dài, nhiều cụm từ được tách ra bằng các dấu phẩy đem đến cho người đọc hình dung về rất nhiều món hàng được bày ra để bán, từ đó thấy được cảm xúc rộn ràng của người viết trước phiên chợ đông đúc.

những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

II. Phần viết những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Đề bài 1: Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của mùa xuân quê hương được thể hiện trong văn bản Những dặm đường xuân (Băng Sơn).

Gợi ý:  những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

Phân tích đánh giá NHỮNG DẶM ĐƯỜNG XUÂN

 —————

Đề bài 2: Trình bày suy nghĩ của em về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc gìn giữ những nét đẹp bản sắc văn hoá dân tộc.

Gợi ý: những dặm đường xuân ; trắc nghiệm những dặm đường xuân

a. Bài làm cần đảm bảo cấu trúc của bài văn nghị luận: mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề; thể hiện được suy nghĩ sâu sắc của cá nhân về vấn đề nghị luận.

b. Nêu được vấn đề nghị luận: Suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc gìn giữ những nét đẹp bản sắc văn hoá dân tộc.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm.

Học sinh có thể triển khai theo các cách khác nhau, kết hợp lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ luận điểm. Gợi ý:

– Làm rõ vấn đề nghị luận: Bản sắc văn hoá dân tộc là những nét văn hoá từ lâu đời của dân tộc, những nét đặc trưng vùng miền tạo sự khác biệt và đa dạng trong cộng đồng. Thế hệ trẻ là thế hệ tương lai của đất nước, hơn ai hết cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn truyền thống văn hoá dân tộc.

– Nêu rõ quan điểm của bản thân về vấn đề nghị luận và lập luận để bảo vệ quan điểm:

+ Bản sắc văn hoá dân tộc là một trong những giá trị tạo nên vị thế, nét đặc sắc riêng của dân tộc, do đó thế hệ trẻ cần có ý thức bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá đó.

+ Thế hệ trẻ cần ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn bản

sắc văn hoá dân tộc; cần quan tâm, tìm hiểu, học tập những nét văn hoá bản địa, những truyền thống tốt đẹp.

+ Thế hệ trẻ cần giữ gìn, bảo vệ, phát huy những giá trị cốt lõi trước sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các nền văn hoá bên ngoài đồng thời có ý thức lan toả, quảng bá văn hoá dân tộc đến các quốc gia khác trên thế giới.

– Liên hệ mở rộng và bài học rút ra về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc gìn giữ những nét đẹp bản sắc văn hoá dân tộc: Phê phán những tư tưởng chưa hợp lí, những nhận thức sai lệch về bản sắc văn hoá dân tộc; bản sắc văn hoá dân tộc không phải là giá trị bất biến, do đó mỗi cá nhân cũng cần có ý thức về sự giao thoa, tiếp biến văn hoá khu vực và thế giới để vừa giữ gìn tinh hoa, văn hoá dân tộc, vừa tiếp thu văn hoá nước ngoài, làm giàu đẹp hơn cho văn hoá truyền thống.

d. Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt

e. Sáng tạo: có cách diễn đạt mới mẻ.

DANH SÁCH các bài ĐỌC HIỂU

lediem.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *