Giới thiệu đến các bạn bài viết: Tư cách mõ (Nam Cao) ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ (Nam Cao) ; trắc nghiệm tư cách mõ (10 CÂU HỎI, Đề kiểm tra). Đây là đề kiểm tra tự luận kết hợp trắc nghiệm, được thiết kế theo hướng chương trình mới năm 2018. Và cũng là một tài liệu quan trọng dành cho các bạn học sinh làm quen và thích nghi với các thay đổi trong giảng dạy và kiểm tra theo chương trình mới. Bài viết còn giúp các bạn tăng cường kiến thức và kỹ năng, đồng thời giúp học sinh làm quen với cách làm bài trong các đề kiểm tra mới.
Đề:
I. Đọc hiểu văn bản (6 điểm) tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
Đọc văn bản sau: tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
TƯ CÁCH MÕ
Nam Cao
Bây giờ thì hắn đã thành mõ hẳn rồi. Một thẳng mõ đủ tư cách mõ, chẳng chịu kém những anh mõ chính tông một tí gì: cũng đê tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn. Hơi thấy nhà nào lách cách mâm bát là hắn đến ngay. Hắn ngồi tít ngoài xa, ngay chỗ cổng vào. Người ta bưng cho một mình hắn một mâm. Hắn trơ tráo ngồi ăn. Ăn xong, còn thừa bao nhiêu, hộn tất cả vào, lấy lá đùm thành một đùm to bằng cái vế đùi, để đem về cho vợ, cho con. Có khi hắn còn sán đến những chỗ người ta thái thịt, dỡ xôi, lấy cắp hoặc xin thêm một đùm to nữa. Hắn bỏ cả hai đùm vào cái tay nải rất to, lần đi ăn cỗ nào hắn cũng đem theo. Thế rồi một tay xách tay nải, một tay chống ba toong, hắn ra về, mặt đỏ gay vì rượu, và trầu, đầy vẻ phè phỡn và hể hả… Mùa đến, hắn vác một cái đòn càn có quấn mấy sợi thừng ở một đầu, đo hết ruộng nọ đến ruộng kia:
– Mùa màng, anh em đến xin cụ lượm lúa… Mùa màng, anh em đến xin ông lượm lúa… Đến xin bà, hay thầy, hay cô lượm lúa…
Mồm hắn nói, tay hắn lượm. Hắn cứ chọn những gồi nào to nhất, mẩy nhất thì lượm. Cụ hay ông, hay bà, hay thầy, cô, bằng lòng cho hay không, cũng mặc! Mặc cho ông, bà, thầy, cô tiếc. Hạt thóc quý như hạt ngọc. Nhưng tiếc cũng chẳng làm sao được. Ai nấy đều im như thóc cả. Người ta đã nói: tham như mõ. Nếu nó không tham, sao nó làm mõ? Còn mình không lẽ mình lại keo với cả từ thằng mõ trở đi?… Hà hà! Cứ vậy là ăn câu đấy. Hắn biết thóp người ta như vậy, nên hắn lại càng làm dữ […].
Cứ thế, hắn ỷ vào cái địa vị hèn hạ của mình để nhiễu người ta, và lấy sự nhiễu dược của người ta làm khoái lắm. Nhiều người phải bực mình. Họ lại còn bực mình vì cái cách hắn tưng nịnh những người rộng rãi và tỏ vẻ xấc láo, bùng phỉu đối với những kẻ không lấy gì mà rộng rãi với hắn được. Thật hắn đã vô liêm sỉ quá. Mỗi lần hắn đi khỏi, những người đàn bà nguýt theo, chúm mỏ ra và lẩm bẩm:
– Giống mõ có khác! Không trách được người ta gọi là đồ mõ!… Trông ghét quá!…
Người ta tưởng như ông trời đã cố ý sinh ra hắn như thế để mà làm mõ; hắn có cái cốt cách của một thằng mõ ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ, và là mõ ngay từ ngày mới sinh…
Không! Lộ sinh ra là con một ông quan viên tử tế, hẳn hoi. Và chỉ mới cách đây độ ba năm, hắn vẫn còn được gọi là anh cu Lộ. Anh cu Lộ hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm chăm, chút chút làm để nuôi vợ, nuôi con. Bố chết cả mẹ rồi. Chị cu thì y như con mài mại: lúc nào cũng chửa. Vừa mới dạo nào, trông bụng chị to như cái thúng, rồi bẵng đi một dạo không gặp chị, đến lúc gặp thì cái bụng chị đã lại mây mẩy rồi. Người đàn bà mắn quá! Vườn đất hẹp. Gia sản không có gì. Anh cu Lộ chỉ độc nai lưng ra cày thuê, cuốc mướn. Nói thế, nghĩa là nhà cũng túng. Nhưng túng thì túng thật, mà bụng dạ anh ta khá. Anh chỉ làm mà ăn với nuôi vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm, ăn cắp của ai. Cái sự túng làm liều, anh tịnh là không có. Nhà hàng xóm có con gà, con vịt chạy sang, hoặc buồng chuối, quả mít liền kề ngay với giậu nhà anh, anh cũng mặc thây, không hề có cái tính tắt ma, tắt mắt. Nói cho phải, thì anh cu Lộ ăn ở phân minh lắm. Bởi vậy, kẻ trên, người dưới, hàng xóm láng giềng ai cũng mến…
(Lược một đoạn: Làng thiếu chân mõ nhưng vì không ai chịu làm nên các cụ nghĩ ngay đến Lộ vì anh ta hiền lành, cẩn thận, lại sạch sẽ; rồi cho gọi Lộ đến, đem các quyền lợi ra để dỗ dành, thuyết phục.)
Lộ bùi tai, làm vậy. Và quả nhiên, hắn làm được ít lâu thì nhà đỡ xo dụi hơn trước thật. Bởi vì hắn chăm chỉ lắm. Mấy sào vườn họ cho, hắn cuốc xới rất kĩ càng. Hắn làm ngô, làm mía được mấy vụ tốt luôn. Tiền của họ cho, hắn bỏ ra lấy khô bã cho lợn ăn. Sưu thuế không mất một đồng trinh, làm được đồng nào được cả. Làm gì không dễ chịu?
Bấy giờ những anh khác trông thấy thế mới sinh ra tiếc. Họ thấy Lộ làm sãi ngon ǎn quá. Họ ngấm ngầm ghen với hắn. Và chẳng người nào bảo người nào, họ vô tình về hùa với nhau để báo thù.
Những lời tiếng mỉa mai truyền từ người nọ đến người kia. Lộ thấy những bạn bè cứ lảng dần. Những người ít tuổi hơn, nói đến hắn, cũng gọi bằng thằng. Trong những cuộc hội họp, nếu hắn có vui miệng nói chõ vào một vài câu, nhiều người đã ra vẻ khinh khỉnh, không thèm bắt chuyện… Hắn nhận thấy sự thay đổi ấy, và bắt đầu hối hận. Nhưng sự đã trót rồi, biết làm sao được nữa? Hắn tặc lưỡi và nghĩ bụng: “Tháng ba này, thằng nào thằng ấy đến ba ngày không được một bát cơm, dãi nhỏ ra, hết còn làm bộ!”… Một ý phấn khích đã bắt đầu nảy mầm trong khối óc hiền lành ấy… Một hôm, trong một đám khao, Lộ vừa chực ngồi cỗ thì ba người ngồi trước đứng cả lên. Lộ ngồi trơ lại một mình. Mặt hắn đỏ bừng lên. Hắn do dự một chút rồi cũng phải đứng lên nốt, mặt bẽn lẽn cúi gầm xuống đất. Chủ nhà hiểu ba anh kia có ý gai ngạnh không chịu ngồi chung với mõ. Ông tìm một người khác, xếp vào cho đủ cỗ, và yên ủi Lộ:
– Chú ăn sau cũng được.
Lộ ẩm ừ cho xong chuyện, rồi nhân một lúc không ai để ý, lẻn ra về. Hắn tấm tức rất lâu. Trông thấy vợ, hắn cúi mặt, không dám nhìn thị, làm như thị đã rõ cái việc nhục nhã vừa rồi. Hắn thở ngắn thở dài, lắm lúc hắn muốn bỏ phắt việc, trả lại vườn cho họ đỡ tức. Nhưng nghĩ thì cũng tiếc. Hắn lại tặc lưỡi một cái, và nghĩ bụng: “Mặc chúng nó!”… Hắn chỉ định từ giờ chẳng đi ăn cỗ đám nào nữa là ổn chuyện… Nhưng khổ một nỗi, không đi, không được. Đám nào có ăn, tất nhiên chủ nhân không chịu để hắn về. Làm cỗ cho cả họ ăn còn được, có hẹp gì một cỗ cho thằng sãi? Để nó nhịn đói mà về nó chửi thầm cho. Mà thiên hạ người ta cũng cười vào mặt, là con người bủn xỉn… Ấy, người ta cứ suy hơn, tính thiệt như vậy, mà nhất định giữ sãi lại. Không ai chịu ngồi với hắn, thì hắn sẽ ngồi một mình một cỗ. Nếu hắn có sợ thẹn, thì người ta sẽ dọn cỗ trong bếp, hay một chỗ nào kín đáo cho hắn ngồi…
Mới đầu, Lộ tưởng ngồi như thế, có lẽ là yên ổn đấy. Nhưng người ta tồi lắm. Người ta nhất định bêu xấu hắn. Trong nhà đám, một chỗ dù kín đáo thế nào, mà chả có người chạy qua, chạy lại. Mỗi người đi qua lại hỏi hắn một câu:
– Lộ đấy à, mày?
Cũng có người thêm:
– Chà! Cỗ to đấy nhỉ? Đằng ấy hoá ra lại… bở!
A! Thế ra họ nói kháy anh cu Lộ vậy, cáu lắm. Hắn tặc lưỡi một cái và nghĩ bụng: “Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì!”… Hắn lập tức bê cỗ về sân, đặt lên phản, ung dung ngồi. Nói thật ra, thì hắn cũng không được ung dung lắm. Tai hắn vẫn đỏ như cái hoa mào gà, và mặt hắn thì bẽn lẽn muốn chữa thẹn, hắn nhai nhồm nhoàm và vênh vênh nhìn người ta, ra vẻ bất cần ai. Sau cái bữa đầu, hắn thấy thế cũng chẳng sao, và bữa thứ hai đã quen quen, không ngượng nghịu gì mấy nữa. Bữa thứ ba thì quen hẳn. Muốn báo thù lại những anh đã cười hắn trước, tự hắn đi bưng lấy cỗ, và chọn lấy một cỗ thật to để các anh trông mà thèm. Bây giờ thì lại đến lượt người chủ không được bằng lòng. Có một mình nó ăn mà đòi một cỗ to hơn bốn người ăn….
– Mẹ kiếp! Không trách được người ta bảo: “Tham như mõ”.
A! Họ bảo hắn là mõ vậy… Tham như mõ vậy!… Đã vậy thì hắn tham cho mà biết!… Từ đấy, không những hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn lại còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì tự hắn xông vào chỗ làm cỗ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiều thì hết, còn lại hắn gói đem về cho vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu lại để ăn hai ba ngày… Hà hà! Phong lưu thật!… Cho chúng nó cứ cười khoẻ đi!
Cứ vậy, hắn tiến bộ mãi trong nghề nghiệp mõ. Người ta càng khinh hắn, càng làm nhục hắn, hắn càng không biết nhục. Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…
Bây giờ thì hắn mõ hơn cả những thằng mõ chính tông. Hắn nghĩ ra đủ cách xoay người ta. Vào một nhà nào, nếu không được vừa lòng, là ra đến ngõ, hắn chửi ngay, không ngượng:
– Mẹ! Xử bẩn cả với thằng mõ…
(Nam Cao, truyện ngắn tuyển chọn, NXB Văn học, Hà Nội, 1995, trang 243 – 251)
* Tác giả, tác phẩm
Nam Cao (1917 – 1951), tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân tại huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (nay thuộc xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Cuộc đời ông vất vả, lận đận, phải đi nhiều nơi để kiếm sống bằng nghề giáo, nghề viết văn. Năm 1943, ông tham gia nhóm Văn hoá cứu quốc rồi tham gia khởi nghĩa, làm công tác báo chí, tuyên truyền phục vụ kháng chiến. Ông hi sinh trên đường đi công tác.
Nam Cao là người có tấm lòng đồn hậu, chan chứa yêu thương, gắn bó sâu nặng, ân tình với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức. Ông cũng là người sâu sắc, có đời sống nội tâm phong phú, luôn sôi sục, có khi căng thẳng dù nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói (ông từng tự giễu mình là có cái mặt “không chơi được”).
Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Ông là một trong những gương mặt đại diện xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực giai đoạn này. Với quan niệm sáng tác đúng đắn, phong cách nghệ thuật độc đáo, đặc biệt ngòi bút khắc hoạ tâm lí tài tình và nghệ thuật trần thuật đặc sắc, ông đã để lại những tác phẩm giàu giá trị, thấm đẫm tư tưởng nhân đạo.
Tư cách mõ là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà vă sáng tác trước Cách mạng tháng Tám.
Lựa chọn đáp án đúng
Câu 1. Đề tài của tác phẩm là gì?
- Tư cách của những người làm nghề mõ
- Những khó khăn, thử thách của nghề mõ
- Cuộc sống và nhân phẩm của người nông dân trong xã hội cũ
- Văn hoá ứng xử ở làng quê Việt Nam trong xã hội cũ
Câu 2. Phương án nào dưới đây thể hiện “tư cách mổ” của nhân vật Lộ?
- Hiền lành, tốt tính
- Yêu vợ, thương con
- Giàu lòng tự trọng
- Tham lam, đê tiện
Câu 3. Nhân vật Lộ được khắc hoạ chủ yếu qua phương diện nào?
- Lời nói và hành động
- Ngoại hình và lời nói
- Ngoại hình và nội tâm
- Hành động và nội tâm
Câu 4. Nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi về tính cách của nhân vật Lộ?
- Do thái độ miệt thị, khinh thường của dân làng
- Do công việc vất vả, phải thức khuya dậy sớm
- Do cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, cơ cực
- Do sự ức hiếp, bóc lột, đè nén của tầng lớp thống trị
Câu 5. Phương án nào dưới đây là lời của người kể chuyện?
- Mùa màng, anh em đến xin cụ lượm lúa
- Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần gì!
- Mẹ kiếp! Không trách được người ta bảo: “Tham như mõ”.
- Bây giờ thì hắn mõ hơn những thằng mõ chính tông
Câu 6. Trong đoạn văn sau, tác giả đã trần thuật từ điểm nhìn của nhân vật nào?
“A! Họ bảo hẳn là mõ vậy… Tham như mô vậy!.. Đã vậy thì hắn tham cho mà biết… Từ đấy, không những hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn lại còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì tự hẳn xông vào chỗ làm cỗ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết, còn lại hắn gói đem về cho vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu lại để ăn hai ba ngày… Hà hà! Phong lưu thật!… Cho chúng đầm nó cứ cười khoẻ đi!”
- Nhân vật Lộ
- Nhân vật người kể chuyện
- Nhân vật người chủ nhà đám
- Nhân vật khách đến dự đám
Câu 7. Thái độ của nhà văn đối với nhân vật Lộ là gì?
- Khinh ghét
- Thương xót
- Bất bình
- Căm giận
Trả lời câu hỏi sau: tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
Câu 8. Hãy nêu một chi tiết em thấy đặc sắc nhất trong tác phẩm và lí giải vì sao em chọn chi tiết đó.
Câu 9. Chỉ ra nét tương đồng và khác biệt giữa nhân vật Lộ và nhân vật Chí Phèo (trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Năm Cao) về mặt phát triển nhân cách.
Câu 10. Phát biểu triết lí nhân sinh được gửi gắm trong tác phẩm.
II. Phần viết tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
Đề bài 1: Trình bày cảm nhận của em về nhân vật Lộ trong truyện ngắn Tư cách mõ (Nam Cao).
Đề bài 2: Nhà văn Nam Cao phát biểu trong truyện ngắn Tư cách mõ: “lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…”.
Em có đồng tình với ý kiến trên không? Hãy viết bài văn để trình bày quan điểm của mình.
Gợi ý trả lời tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
Câu 1. C Cuộc sống và nhân phẩm của người nông dân trong xã hội cũ
Câu 2. D Tham lam, đê tiện
Câu 3. D Hành động và nội tâm
Câu 4. A Do thái độ miệt thị, khinh thường của dân làng
Câu 5. D Bây giờ thì hắn mõ hơn những thằng mõ chính tông
Câu 6. A Nhân vật Lộ
Câu 7. B Thương xót
Trả lời câu hỏi sau: tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
Câu 8.
– Học sinh nêu được một chi tiết đặc sắc trong tác phẩm và lí giải sự lựa chọn một cách thuyết phục.
– Ví dụ: Chi tiết miêu tả hình ảnh nhân vật Lộ ngồi ăn một mình một mầm ở sân trước mặt mọi người. Đây là chi tiết đặc sắc vì nhà văn đã miêu tả những cảm xúc ở “ranh giới” của lòng tự trọng còn sót lại với sự tham lam, trơ trẽn, vô liêm sỉ đang dần hình thành và ngày càng phát triển ở nhân vật Lộ.
Câu 9.
Chỉ ra nét tương đồng và khác biệt giữa nhân vật Lộ và nhân vật Chí Phèo về mặt phát triển nhân cách.
– Nét tương đồng: Đều bị tha hoá bởi hoàn cảnh, từ một người hiền lành thành một kẻ xấu.
– Nét khác biệt: Kết thúc tác phẩm, nhân vật Chí Phèo được miêu tả ở cả quá trình hoàn lương nhưng rơi vào bi kịch, phải chọn cái chết. Còn nhân vật Lộ, khi kết thúc tác phẩm cũng là lúc quá trình tha hoá lên tới đỉnh điểm – nhân vật đã mang “tư cách mõ” thực sự.
Câu 10. Triết lí nhân sinh được thể hiện trong tác phẩm (rõ nhất trong lời của người kể chuyện: “lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…”) đó là: thái độ đối xử của những người xung quanh có tác động rất lớn đến sự phát triển nhân cách của một con người; nếu chúng ta không tôn trọng một người, khinh bỉ, làm nhục họ thì rất có thể họ sẽ trở nên thiếu lòng tự trọng, xấu xa, đê tiện, đáng khinh bỉ.
II. Phần viết tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
Đề bài 1: Trình bày cảm nhận của em về nhân vật Lộ trong truyện ngắn Tư cách mõ (Nam Cao).
a. Bài làm cần đảm bảo cấu trúc của bài văn nghị luận: mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề; thể hiện được suy nghĩ sâu sắc của cá nhân về vấn đề nghị luận.
b. Nêu được vấn đề nghị luận: Cảm nhận về nhân vật Lộ.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm.
Học sinh có thể triển khai theo các cách khác nhau, kết hợp lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ luận điểm. Gợi ý:
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị luận.
– Trình bày cảm nhận về nhân vật qua các phương diện được nhà văn khắc hoạ (hoàn cảnh, hành động, suy nghĩ, thái độ, sự cảm nhận của những người xung quanh), đặc biệt cần làm rõ về hành trình tha hoá của nhân vật (từ một người hiền lành trở thành kẻ tham lam, trơ trẽn, vô liêm sỉ):
+ Gia cảnh và bản tính của anh cu Lộ trước khi nhận công việc làm mõ (gia đình tử tế, con người hiền lành, chịu khó, đầy lòng tự trọng).
+ Sự thay đổi của nhân vật từ khi nhận công việc làm mõ và chịu tác động bởi thái độ đối xử của dân làng và những người xung quanh (trước ánh nhìn, lời nói và thái độ mỉa mai, khinh bỉ của dân làng, lúc đầu Lộ hối hận vì đã nhận làm mõ, cảm thấy ngượng nghịu, xấu hổ, nhục nhã, muốn lảng tránh, muốn bỏ “nghề”; nhưng sau dần quen, không những không còn những cảm giác đó nữa mà lại sinh ra “phấn khích”, có ý định “chọc tức” và “trả thù” những kẻ đã khinh hắn, làm nhục hắn, quàng vào hắn “tư cách mõ” tham lam, đê tiện bằng cách trở thành “mõ” thực thụ).
+ Sự “tiến bộ” của nhân vật trong nghề làm mõ (dân làng càng khinh bỉ, làm nhục hắn; hắn càng trở nên tham lam, đê tiện).
– Bày tỏ thái độ và sự đánh giá phù hợp với nhân vật; lí giải nguyên nhân sự tha hoá của nhân vật và rút ra chủ đề của tác phẩm cũng như triết lí nhân sinh được nhà văn gửi gắm: Nhân vật Lộ trước khi trở thành mõ thật đáng quý, đáng trọng; khi trở thành mõ rồi thật đáng ghét, đáng trách nhưng cũng thật đáng thương. Nguyên nhân sự tha hoá a, xót xa của nhân vật là bởi sự ứng xử của cộng đồng, là do sự làm nhục của dân làng. Qua sự tha hoá đó, nhà văn đã thể hiện nỗi đau đớn, xa và gửi gắm triết lí nhân sinh sâu sắc: cách chúng ta cư xử với người khác có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhân cách của người đó.
– Nhận xét, đánh giá nghệ thuật khắc hoạ nhân vật đặc sắc, đặc biệt nghệ thuật khắc hoạ tâm lí tài tình và sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật độc đáo.
e. Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
d. Sáng tạo: có cách diễn đạt mới mẻ.
——–
Đề bài 2: tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
Nhà văn Nam Cao phát biểu trong truyện ngắn Tư cách mõ: “lòng khinh, trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để khiến người sinh đê tiện…”.
Em có đồng tình với ý kiến trên không? Hãy viết bài văn để trình bày quan điểm của mình.
a. Bài làm cần đảm bảo cấu trúc của bài văn nghị luận: mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài khái quát được vấn đề; thể hiện được suy nghĩ sâu sắc của cá nhân về vấn đề nghị luận.
b. Nêu được vấn đề nghị luận: Trình bày quan điểm về triết lí nhân sinh được thể hiện trong phát biểu của Nam Cao ở truyện ngắn Tư cách mõ.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm. tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
Học sinh có thể triển khai theo các cách khác nhau, kết hợp lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ luận điểm.
Gợi ý: tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ
– Làm rõ vấn đề nghị luận: Giải thích và rút ra vấn đề từ lời phát biểu: thái độ đối xử của những người xung quanh có tác động rất lớn đến sự phát triển nhân cách của một con người.
+ Nêu rõ quan điểm của bản thân về vấn đề nghị luận (đồng tình hay không đồng tình) và lập luận để bảo vệ quan điểm. (Ví dụ: Thái độ đối xử của những người xung quanh có tác động cụ thể như thế nào đến sự phát triển nhân cách của một con người? Vì sao lại có sự tác động này?)
– Bàn luận, mở rộng và rút ra bài học về cách ứng xử của bản thân với những người xung quanh.
d. Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
e. Sáng tạo: có cách diễn đạt mới mẻ. tư cách mõ ; tư cách mõ nam cao ; đọc hiểu tư cách mõ ; trắc nghiệm tư cách mõ