Đề: đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 điểm) đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

Đọc văn bản sau: đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

ĐẤU VẬT – NÉT ĐẸP CỔ TRUYỀN TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM

Vật là một bộ môn thể thao rất được ưa chuộng trong giới nông dân Việt Nam thời xưa. Mở hội ngày Xuân mà không có thi vật thì thật là thiếu thú vị của những ngày Tết.

Kỹ thuật và nghi lễ đấu vật

Trước hết, các đô vật được tập cách luyện thể lực cho dai sức, mạnh tay mạnh chân, cách đứng thủ thế nào cho vững chắc, cách “lồng tay tư”sao cho có ưu thế và những bộ pháp như cách di chuyển từng bước chân, khi tới, khi lui, khi bước ngang, bước xéo, xoay vòng,… Họ còn được tập luyện cách té ngã thế nào cho khỏi đập đầu xuống đất, khỏi gẫy tay, tập cách né tránh, thoát hiểm, “cầu vồng”, kể cả những nghi thức có tính cách tôn giáo dành riêng cho mỗi lò vật, như Múa Hoa, Xe Đài hay còn gọi là Ra Giàng, hoặc Múa Hạc,…

 Đến xem một trận đấu vật, bạn có thể thấy được các đô vật trước khi bước vào trận đấu sẽ nhảy một điệu đặc trưng. Đó là nghi lễ đặc biệt của một trận đấu vật. Ra Giàng, Múa Hạc hay Xe Đài là một lễ nghi thành kính của các đô vật, và còn một hình thức khởi động của đô vật có mang tính dân tộc, vừa là cách trình diễn của đô vật với khán giả, tạo một không khí hào hứng lành mạnh trước khi vào cuộc đấu thực sự.

Ngoài Ra Giàng, hai bên vờn nhau còn đánh đòn tâm lý, gây cho đối phương tư tưởng hoang mang, giao động với những lối Ra Giàng hùng dũng, chân đứng hình con hạc, hay đứng theo kiểu con phượng nhích chân, con dang cất cánh hoặc con công múa xòe, cổ tay uốn lượn, ngón tay múa may mền dẻo, uốn éo, giống như những nghi thức tay Ấn tay Quyết của các thầy tế, pháp sư hay phù thủy.

Luật lệ trong đấu vật

Trong thượng đài đấu vật, khác với các giải đấu võ thuật hiện đại, tuổi tác hay hạng cân nặng của thí sinh không quan trọng. Để giành chiến thắng, cần nhấc bổng địch thủ hổng cả hai chân lên khỏi mặt đất (“Túc Ly Địa”) được coi là thắng, hổng một chân thì không tính. Ngoài ra, vật đối phương té ngã ngửa, lưng vai chạm mặt đất thì thắng (“Lấm Lưng Trắng Bụng”), ngã sấp không tính. Vật không có hòa, phải xác định một thắng một thua (thắng tuyệt đối hay thắng điểm). Ngoài ra không được đấm đá, hay sử dụng những chiêu ăn gian như bấm huyệt, móc xương quai xanh, chẹn hàm, bẻ cổ, lên gối, nắm tóc, xé khố đối thủ, hay khi bị té ngã rồi không được móc chân cho đối thủ ngã theo, v.v… 

(Nguyễn Hằng sưu tầm, theo báo Quân đội nhân dân).

đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam
Đấu vật

Thực hiện các yêu cầu: đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

Câu 1. Văn bản trên viết về vấn đề gì? (0,5 điểm)

Câu 2. Chỉ ra các yếu tố hình thức được sử dụng trong văn bản? (0,5 điểm)

Câu 3. Văn bản trên được chia làm mấy phần? Chỉ ra mối quan hệ giữa các phần trong việc thể hiện thông tin chính của văn bản? (1,0 điểm)

Câu 4. Chỉ ra mục đích, thái độ của người viết được thể hiện trong văn bản? (1,0 điểm)

Câu 5. Từ văn bản trên, anh/chị có suy nghĩ gì về nếp sống của người xưa? (1,0 điểm)

II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm)  đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

Câu 1. (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm của anh/chị về vai trò của thể thao đối với cuộc sống con người.

Câu 2. (4,0 điểm)

Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích xung đột kịch trong văn bản sau:

Lược dẫn: Lê Tương Dực, một tên hôn quân bạo chúa, khao khát xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi vui chơi với các cung nữ. Người duy nhất có thể giúp y thực hiện niềm khao khát ấy chính là Vũ Như Tô, một kiến trúc sư thiên tài. Nhưng vốn là nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, Vũ Như Tô kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài cho tên bạo chúa. Vũ Như Tô bị truy nã, rồi bị bắt giải về kinh. Tại đây, ông gặp một cung nữ tên là Đan Thiềm. Đan Thiềm khuyên ông nên lợi dụng quyền thế và tiền bạc của Lê Tương Dực để xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài kì vĩ, nhằm đem lại vinh dự cho non sông và để cho hậu thế được tự hào. Nghe lời khuyên của Đan Thiềm, ông đồng ý xây dựng Cửu Trùng Đài. Trong lúc Vũ Như Tô đang trò chuyện với Đan Thiềm thì Lê Tương Dực tới, Đan Thiềm bèn lui ra.

HỒI THỨ NHẤT

Lớp IX

LÊ TƯƠNG DỰC (cười gằn): – Vũ Như Tô, mi không sợ chết sao?

VŨ NHƯ TÔ: – Tâu Hoàng thượng, tiện nhân không sợ chết.

LÊ TƯƠNG DỰC: – Người ta ai không tham sinh úy tử [1]. Mi nói không sợ chết chẳng hóa ra vọng ngôn sao! Sao trẫm triệu vào kinh, mi lại trốn?

VŨ NHƯ TÔ: – Tâu Hoàng thượng, tiện nhân trốn đi để tránh cho triều đình một tội ác.

LÊ TƯƠNG DỰC: – Trẫm sai cắt lưỡi mi đi bây giờ!

VŨ NHƯ TÔ: – Lời thẳng thì hay trái tai. Xin Hoàng thượng cho phép tiện nhân được nói. Tiện nhân có bị cực hình cũng không oán hận.

LÊ TƯƠNG DỰC: – Trẫm khoan thứ cho mi nhiều lắm rồi.

VŨ NHƯ TÔ: – Tâu Hoàng thượng, tiện nhân có tội gì mà Hoàng thượng phải khoan thứ? Tiện nhân không trộm cướp, không tham nhũng, không giết người, tiện nhân chỉ biết phụng dưỡng mẹ già, nuôi vợ, nuôi con. Đang yên ổn, bỗng dưng tiện nhân bị bắt, bị đóng gông xiềng rồi bị giải đi, ăn không được ăn, uống không được uống, nghỉ ở đâu cũng bị giam vào lao như những quân trọng phạm. Hỏi tiện nhân có tội gì?

LÊ TƯƠNG DỰC: Vua cần đến thì thần dân phải xả thân làm việc kỳ đến chết thì thôi.

VŨ NHƯ TÔ: – Nhưng xử đãi thế thì ai muốn trau dồi nghề nghiệp? Kính sĩ mới đắc sĩ[2]

LÊ TƯƠNG DỰC: – Trẫm rộng lượng nên mi mới được ăn nói rông càn. Chẳng qua là trẫm mến tài, người khác thì đã mất đầu.

VŨ NHƯ TÔ: – Thân này tiện nhân đã cầm chắc là không được toàn. Nhưng trước khi chết tiện nhân cũng cố hết sức biện bạch, mong Hoàng thượng đừng coi rẻ anh em tiện nhân, ngõ hầu con em theo gót sau này sẽ mở mày mở mặt. Những ân huệ ấy tiện nhân không xin cho mình – tiện nhân xin chịu chết mà xin cho lũ hậu bối. Được biệt đãi, có địa vị thì những kẻ tài hoa mới xuất hiện, tranh nhau tô điểm nước non.

LÊ TƯƠNG DỰC: – Đó là công việc của trẫm và các đại thần. Mi là một tên thợ không biết gì. Hãy nghe trẫm hỏi chuyện Cửu trùng đài. Một năm nay không xây được, trẫm lấy làm phiền lắm. Đài phải có trăm nóc, cao mười trượng, dài năm trăm trượng, mi có đủ tài xây được không?

VŨ NHƯ TÔ: – Tiện nhân không thấy cái khó ở đâu cả. Tiện nhân tự xét, thực thừa sức xây Cửu trùng đài.

LÊ TƯƠNG DỰC: – Mi định xây ra làm sao?

VŨ NHƯ TÔ: – Điều tiện nhân xin lúc nãy, Hoàng thượng hãy chuẩn y cho đã.

LÊ TƯƠNG DỰC: – Mi định bắp ép ta sao? Đầu mi chỉ một lệnh truyền là không còn trên cổ.

VŨ NHƯ TÔ: – Tiện nhân đã coi rẻ cái đầu này… Tiện nhân nhắc đi nhắc lại nhiều lần như thế, Hoàng thượng quên rồi sao? Chỉ vì tiền đồ nước ta mà tiện nhân xin Hoàng thượng trọng đãi thợ. Hoàng thượng không được khinh rẻ họ, không được ức hiếp họ. (Mắt sáng lên, nét mặt quả quyết) Được thế thì tiện nhân mới chịu làm, mà xin Hoàng thượng biết cho, đài Cửu trùng, phi Vũ Như Tô này, không ai làm nổi.

LÊ TƯƠNG DỰC (lòng tự tin của Vũ đã làm cho vua kinh ngạc): – Sợ mi chỉ là một kẻ đại ngôn.

VŨ NHƯ TÔ: – Tiện nhân dám nói thế, không phải là đại ngôn, mà vì tiện nhân tự biết mình. (…) Trong suốt một năm đi trốn, tuy bị truy nã, khổ nhục trăm đường, tiện nhân cũng đã vẽ phác bản đồ Cửu trùng đài, tính toán đâu đấy và đã ghi hết trong một cuốn sổ.

LÊ TƯƠNG DỰC (mừng rỡ): – Đâu cho trẫm xem.

VŨ NHƯ TÔ: – Trong túi áo tiện nhân đây. Nhưng xin Hoàng thượng hãy chuẩn y những điều tiện nhân xin lúc nãy đã.

LÊ TƯƠNG DỰC: – Đưa trẫm xem đã.

VŨ NHƯ TÔ: – Xin Hoàng thượng trả lời tiện nhân đã.

LÊ TƯƠNG DỰC: – Mi tưởng ta không lấy được của mi sao? (Đến lần túi Vũ Như Tô rút ra một bản đồ và một quyển sổ dày).

VŨ NHƯ TÔ (khinh bỉ): – Không ngờ Hoàng thượng…

LÊ TƯƠNG DỰC (đặt bản đồ lên long kỷ, mặt mỗi lúc một tươi, một lúc lâu): – … Tráng quan lắm, ý trẫm lại muốn khơi một dòng nước từ chính điện thông ra Hồ tây, hai bên bờ trồng kì hoa dị  thảo, để ngày ngày trẫm cùng cung nữ bơi thuyền bơi thuyền hoa ra hồ ngoạn thưởng, mi nghĩ sao?

VŨ NHƯ TÔ: – Được!

LÊ TƯƠNG DỰC: – Vậy thì mi thêm vào.

VŨ NHƯ TÔ: – Không thêm bớt gì cả. Đài Cửu trùng không xây cho…

LÊ TƯƠNG DỰC: – À mi giỏi thực! Lần này trẫm không tha mi nữa, trẫm cũng không cần mi nữa, xem quyển sổ đủ rồi. Đủ rồi, trẫm gọi thợ khác cứ theo đây mà xây, sửa chút ít là vừa ý trẫm. Còn mi, mi chờ quân đao phủ dẫn đi.

(Trích Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng[3], in trong Tổng tập văn học Việt Nam,  tập 24, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, Tr.668-671)

Chú thích: 

[1] Tham sinh úy tử: tham sống sợ chết.

[2] Kính sĩ mới đắc sĩ: Kính trọng kẻ sĩ thì mới được kẻ sĩ giúp đỡ.

[3] Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là một nhà văn, nhà soạn kịch nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có khuynh hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc.

đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam
Đấu vật

Gợi ý trả lời đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

Phần Câu Nội dung Điểm
I   ĐỌC HIỂU đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam 4,0
  1 Văn bản viết về đề tài: đấu vật. 0,5
2 Các yếu tố hình thức được sử dụng trong văn bản: Nhan  đề, sapo, các mục được in đậm. 0,5
3 – Văn bản được chia làm hai phần:

+ Phần 1: kĩ thuật và nghi lễ đấu vật.

+ Phần 2: Các luật lệ trong đấu vật.

– Các phần có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung lẫn nhau để làm rõ thông tin chính của văn bản

1,0
4 Mục đích, thái độ của người viết:

– Mục đích: cung cấp cho người đọc những thông tin quan trọng về bộ môn đấu vật truyền thống.

– Thái độ: ca ngợi môn đấu vật là một nét đẹp cổ truyền trong văn hóa Việt Nam.

1,0
5 Suy nghĩ về nếp sống của người xưa:

– Có một đời sống lành mạnh, ở đó con người quan tâm nhiều đến việc rèn luyện sức khỏe để lao động sản xuất, bảo vệ đất nước.

– Có đời sống văn hóa phong phú và sâu sắc.

1,0
II   VIẾT đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam 6,0
  1 Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm của anh/chị về vai trò của thể thao đối với cuộc sống con người. 2,0
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn

Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng-phân-hợp, móc xích hoặc song hành.

0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: vai trò của thể thao đối với cuộc sống con người. 0,25
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận.

Sau đây là một số gợi ý:

– Thể thao giúp con người rèn luyện để tăng cường sức khỏe.

– Thể thao giúp con người có thái độ sống tích cực, có trí óc minh mẫn.

– Thể thao giúp gắn kết con người.

v.v…

0,5
d. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu sau:

– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.

– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.

0,5
đ. Diễn đạt:

Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.

0,25
e. Sáng tạo:

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

0,25
2 Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích xung đột kịch trong văn bản đã cho. 4,0
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài:

Nghị luận văn học.

0,25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:

Phân tích xung đột kịch trong văn bản đã cho.

0,5
c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề của bài viết:

Tham khảo:

1. Khái quát tác giả, tác phẩm và nêu vấn đề nghị luận:

– Tác giả, tác phẩm: Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là một nhà văn, nhà soạn kịch nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có khuynh hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc. Đoạn trích ở đề bài là một đoạn trích tiêu biểu, được rút ra từ vở kịch “Vũ Như Tô”, vở kịch nổi tiếng nhất của ông.

– Nêu vấn đề nghị luận: phân tích xung đột kịch trong đoạn trích.

2. Triển khai vấn đề nghị luận:

2.1. Phân tích xung đột kịch:

– Xung đột trong đoạn trích thuộc kiểu xung đột bên ngoài, đó là xung đột giữa người kiến trúc sư thiên tài, người nghệ sĩ chân chính với Lê Tương Dực, một tên hôn quân bạo chúa.

+ Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài ba, một nghệ sĩ chân chính. Ông đã tỏ rõ sự tự tin của bản thân cùng thái độ khinh bỉ Lê Tương Dực một cách không cần dấu giếm. Ông là con người quả cảm, xem thường cái chết, nên ông không ngần ngại đưa ra các yêu sách của mình, bắt tên hôn quân Lê Tương Dực phải biết tôn trọng kẻ sĩ.

+ Lê Tương Dực, trái lại, tuy là vua, nhưng lại tỏ ra là một kẻ tiểu nhân. Hắn không hề biết tôn trọng kẻ sĩ, mà chỉ biết dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích của mình: hắn cho quân lùng bắt Vũ Như Tô, năm lần bảy lượt đem cái chết ra để đe dọa, lục túi áo Vũ Như Tô để lấy bản đồ xây Cửu Trùng Đài, và khi đã có được bản đồ, hắn muốn giết Vũ Như Tô theo kiểu “vắt chanh bỏ vỏ”.

– Xung đột giữa Vũ Như Tô và Lê Tương Dực là xung đột giữa kẻ sĩ và bạo chúa, giữa nhân dân và triều đình phong kiến thối nát, giữa những con người có nhân cách và những kẻ mất nhân cách, giữa cái thiện và cái ác.

– Qua xung đột này, Nguyễn Huy Tưởng ca ngợi Vũ Như Tô nói riêng và những kẻ sĩ tài năng, trung nghĩa nói chung; đồng thời phê phán Lê Tương Dực, kẻ hôn quân không chăm lo quyền lợi cho nhân dân mà chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, qua đó lên án cả triều đình phong kiến thối nát.

2.2. Nghệ thuật:

– Thông qua ngôn ngữ và hành động để khắc họa các hình tượng nhân vật một cách sinh động sắc nét.

– Ngôn ngữ kịch mang tính triết lí cao.

– Xây dựng và phát triển xung đột một cách gay cấn.

3. Đánh giá khái quát vấn đề ở đề bài.

1,0
d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:

– Lựa chọn được các thao tác lập luận, phương thức biểu đạt phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.

– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.

1,5
đ. Diễn đạt  đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.

0,25
e. Sáng tạo:

Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

0,5

 

đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam
Đấu vật

Tham khảo câu 1 làm văn.  đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

Thể thao không chỉ là một hoạt động giải trí mà còn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. Với tôi, thể thao không chỉ là việc tập luyện cơ thể mà còn là một trải nghiệm tinh thần, một cách để rèn luyện bản lĩnh và học hỏi những giá trị sống quan trọng. Trước hết, thể thao giúp cải thiện sức khỏe và phát triển cơ thể. Qua việc tham gia các hoạt động thể chất, cơ thể được rèn luyện, tăng cường sức mạnh, sự linh hoạt và sức bền. Điều này không chỉ giúp người tập thể thao tránh xa các bệnh tật mà còn tạo ra một cảm giác sảng khoái và hạnh phúc. Ngoài ra, thể thao còn là một cách tuyệt vời để học hỏi các giá trị sống như sự kiên nhẫn, sự kiên định, và tinh thần đồng đội. Trong mỗi trận đấu, người chơi không chỉ học cách đối mặt với thất bại mà còn học cách vươn lên sau những thất bại đó. Đồng thời, thể thao cũng là nơi tạo ra sự đoàn kết và hợp tác giữa các thành viên trong đội, từ đó rèn luyện kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm. Không chỉ vậy, thể thao còn giúp xây dựng tính cạnh tranh lành mạnh và tinh thần fair play. Trong mỗi trận đấu, người chơi phải cạnh tranh một cách công bằng và tôn trọng đối thủ, không chỉ nhằm vào việc giành chiến thắng mà còn để rèn luyện bản thân và phát triển kỹ năng. Cuối cùng, thể thao còn là một công cụ giáo dục tốt, đặc biệt đối với trẻ em và thanh thiếu niên. Thông qua việc tham gia các hoạt động thể thao, trẻ em được rèn luyện tính tự discipline, tự tin và tự quản lý. Họ học được cách đối mặt với thất bại và học hỏi từ những sai lầm, từ đó phát triển thành những con người trưởng thành. Tóm lại, thể thao không chỉ là một hoạt động giải trí mà còn mang lại nhiều giá trị ý nghĩa cho cuộc sống con người. Từ việc cải thiện sức khỏe, rèn luyện kỹ năng sống đến việc xây dựng tinh thần đồng đội và tinh thần fair play, thể thao đóng vai trò không thể phủ nhận trong việc phát triển con người và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền ; đọc hiểu đấu vật nét đẹp cổ truyền trong văn hóa việt nam

 

NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

DANH SÁCH các bài ĐỌC HIỂU

ĐỀ KIỂM TRA NGỮ VĂN 10

ĐỀ KIỂM TRA NGỮ VĂN 11

lediem.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *