ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Hàn Mặc Tử
Câu 1: soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
– Khổ thơ này có thể hiểu là toàn bộ lời của cô gái nói với chàng trai, nhưng cũng có thể hiểu là chàng trai tự nói với mình (dòng thơ thứ nhất nhắc lại lời cô gái mời về thôn Vĩ; dòng thơ thứ hai, thứ ba, thứ tư tự tưởng tượng chuyến đi thăm thôn Vĩ của mình).
– Cảnh vật thôn Vĩ tươi mới, trong trẻo, sáng ngời, thể hiện qua hình ảnh nắng mới lên, mướt, xanh như ngọc, đặc biệt là cách dùng phép so sánh rất mới mẻ: xanh như ngọc, cho thấy sắc xanh như phát sáng. Con người thôn Vĩ phúc hậu, dịu dàng, kín đáo, thể hiện qua hình ảnh “mặt chữ điền” khuất sau “lá trúc”.
Câu 2: soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
– Gió và mây luôn đi cùng một hướng, và khi có gió thì nước cũng gợn lăn tăn. Tuy nhiên, trong khổ thơ này, gió và mây chia lìa hai ngả, dòng nước cũng lặng im, buồn thiu, không gợn sóng.
– Từ “kịp” thể hiện lo âu, sợ hãi trước bước đi thời gian của chủ thể trữ tình. Vạn vật như đang chia lìa, người rời xa nhau, mà thời gian của chủ thể có lẽ không còn nhiều để kịp đón chiếc thuyền chở trăng về. soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
Câu 3: soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
– “Khách đường xa” ở khổ thơ cuối có thể là người con gái mà chủ thể trữ tình thương nhớ, người mà anh luôn “mơ” đến. Từ không gian “ở đây” mịt mù sương khói, chủ thể trữ tình dõi nhìn ra không gian “đường xa”. Những hình ảnh trong khổ thơ này tràn ngập những đường nét cụ thể bị xoá mờ (đường xa), sự cách trở đến gần như xa lạ, mất mát (nhìn không ra), sự mịt mờ khiến con người không còn nhận ra nhau (sương khói mờ nhân ảnh), cặp đại từ “anh – em” thân thương đã trở thành “khách đường xa” và đại từ “ai – ai” đầy xa cách. Từ đó, có thể thấy dường như sự tin tưởng, nhớ thương giữa chủ thể trữ tình và “em” đã dần phai nhạt và trở thành nỗi lo âu về sự chia li, mất mát không thể tránh khỏi.
Câu 4: soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
– Câu hỏi thứ nhất: Câu hỏi và cũng là lời mời mọc, pha chút trách móc nhẹ nhàng của người con gái thôn Vĩ; thể hiện tình cảm thân mật, trân trọng, quý mến. soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
– Câu hỏi thứ hai: Câu hỏi mang cảm xúc lo âu, xót xa của chủ thể trữ tình trước sự chia lìa, tan vỡ của vạn vật.
– Câu hỏi thứ ba: Câu hỏi mang cảm xúc hoang mang, cô đơn, đầy tổn thương và mất mát của chủ thể trữ tình trước sự xa cách của những người mình yêu thương, nhớ nhung.
Câu 5: soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
– Về ngoại cảnh, sự biến đổi đột ngột từ cảnh vườn tược buổi sáng sớm, tươi xanh, tràn đầy sức sống, đến cảnh sông nước đêm khuya lặng lẽ, hiu hắt và cuối cùng là một không gian “ở đây” mịt mờ sương khói, không rõ ở thời điểm nào trong ngày.
– Về cảm xúc của chủ thể trữ tình, sự biến đổi đột ngột từ hạnh phúc, tươi vui đến lo lắng, bất an và cuối cùng là đau buồn, thất vọng, cô độc.
Câu 6: soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
– Gió theo lối gió, mây đường mây: Thể hiện sự kết hợp giữa những hình ảnh vốn dĩ rất khác biệt, ít khi đi liền nhau, tạo nên một không gian phi hiện thực.
– Hình ảnh vườn buổi sớm, bến sông đêm khuya và một nơi chốn “ở đây” không xác định cả về không gian và thời gian, đặt liền nhau: Thể hiện sự kết hợp giữa những không gian, thời gian khác xa nhau tạo nên những liên tưởng đột ngột, bất ngờ về những ám ảnh đau thương của chủ thể trữ tình. Trong không gian “ở đây” đầy cô độc, chủ thể trữ tình hình dung bản thân được “về chơi” ở thế giới bên ngoài, tìm lại những vẻ đẹp tươi mát, rực rỡ của thế giới đó, nhưng rồi vẫn ám ảnh về sự chia lìa, mất mát và cuối cùng lại bị những nỗi đau, lo âu, sợ hãi của bản thân kéo trở về với thế giới cô độc của riêng mình. soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
Câu 7: soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ
– Chủ đề của bài thơ: Vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ trong những hình dung đầy thương nhớ, lo âu và đau thương của một con người mãi mãi không còn dịp trở lại.
– Những chi tiết thể hiện chủ đề: Vườn thôn Vĩ đẹp một cách hư ảo với nắng hàng cau, lá xanh và gương mặt phúc hậu của người thôn Vĩ; bến sông thôn Vĩ hư hư thực thực với gió và mây, dòng nước lặng lẽ, hoa bắp lay và con thuyền chở đầy ánh trăng; cô gái thôn Vĩ đẹp trong trắng, thanh khiết đến gần như xa lạ, gần như không có thực, khiến chủ thể trữ tình càng xót xa, đau đớn về tình yêu tuyệt vọng của mình.
soạn bài đây thôn vĩ dạ ; đây thôn vĩ dạ