Giới thiệu đến các bạn bài viết nghị luận văn học bài Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn văn bản: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau Hoặc: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau bố mị chết … Mời các bạn cùng tham khảo! 

ĐỀ: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Cảm nhận đoạn trích: 

“ Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đối ở cải tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại : Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.

Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cử chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.

Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hải bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ủng, gió và rét rất dữ dội.

Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ […]. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.

Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu.

Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới.”

Từ đoạn trích, anh chị có nhận xét gì về giá trị nhân đạo.

(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục)

Lần lần mấy năm qua mấy năm sau
Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

MỞ BÀI: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Có ai đó đã ví “sáng tạo nghệ thuật giống như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc”. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Quả đúng như vậy, cuộc sống giống như một nghiên mực mà nhà văn phải chấm bút vào đấy, bởi nếu không xuất phát từ hiện thực thì văn chương cũng chỉ là “ánh trăng lừa dối” mà thôi. Điều ấy gợi cho ta nhớ đến nhà văn Tô Hoài và mối lương duyên của ông với vùng đất Tây Bắc. Với Tô Hoài thì “miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều”. Và phải chăng chính vẻ đẹp tâm hồn con người lao động và thiên nhiên nơi đây đã thổi hồn vào những trang viết của nhà văn và để lại ấn tượng sâu đậm qua “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm là kết tinh của tình yêu, niềm cảm thông sâu sắc, khát vọng tự do cho con người… Điều đó đã được Tô Hoài khắc họa một cách chân thực và cảm động, đặc biệt là qua hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích:

“Lần lần mấy năm qua […] Những đêm tinh mùa xuân đã tới” 

Từ đó, làm bật lên giá trị nhân đạo của tác phẩm. 

Lần lần mấy năm qua mấy năm sau
Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

THÂN BÀI: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Khái quát tác giả, tác phẩm: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có – nhiều khi rất bình dân, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người lao động nơi đây.    Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Thành công của tác phẩm này chính là đã làm nổi bật vẻ đẹp sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của con người lao động Tây Bắc thông qua hai nhân vật Mị và A Phủ.   Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Mị là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo. Vì món nợ nặng lãi của cha mẹ, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lý. Đoạn trích này nhà văn tập trung miêu tả cuộc sống thống khổ khiến Mị trở nên cầm lặng, chai sạn, vô hồn và những chuyển biến tâm lý của Mị khi mùa xuân tới.  Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Lần lần mấy năm qua mấy năm sau
Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Triển khai nội dung phân tích: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Đoạn văn mở đầu, Tô Hoài tập trung khắc họa nỗi thống khổ của Mị. Đó là kiếp sống nô lệ bị hắt hủi, bị chà đạp, bị bóc lột sức lao động một cách tàn bạo. “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Những câu văn trần thuật chậm, buồn, nhịp điệu mòn mỏi. Thời gian qua phép điệp “mấy năm qua, mấy năm sau” như ngắt quãng, ngưng đọng, trì trệ, chậm chạp, diễn tả sự tê liệt tinh thần ở Mị, con người sống vật vờ, lặng lẽ như chiếc bóng. Trước đó, Mị từng có ý định ăn lá ngón để tự tử trước mặt cha. Nhưng vì chữ Hiếu, Mị không đành chết. Nay cha Mị đã mất, sự ràng buộc cũng không còn, Mị có thể giải thoát số phận nhưng Mị đã không còn nghĩ đến chuyện tự tử nữa. Bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Sự thống khổ đã làm Mị chai sạn, mất hết cả cảm xúc, tâm hồn đã héo mòn, sống mà như đã chết. Con người quen với khổ đau thì sẽ không còn nhận ra sự khổ đau của mình nữa, vì nó đã quen thuộc. Thậm chí, Mị còn nhầm tưởng “Bây giờ Mị cũng tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Phép điệp “mình cũng là” kết hợp so sánh mình với trâu ngựa cũng là một cách để thấy Mị đã hoàn toàn khuất phục trước hoàn cảnh, chấp nhận an phận, cam chịu như việc thân phận con ngựa phải đổi tàu ngựa nhà này đến nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, đi làm.   Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Nhà thống lý đối với nô lệ thì chỉ có công việc, Mị tuy là dâu nhưng lại là dấu gạt nợ. Vì thế Mị cũng là con ở không hơn không kém. Thế nên, cuộc sống của Mị trong nhà thống lý là chìm vào thời gian và công việc: “lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”. Câu văn sử dụng phép điệp, liệt kê thời gian lặp đi lặp lại gọi ra sự quanh quẩn, nhàm chán, bế tắc, tuyệt vọng. Thời gian và công việc như cái vòng lặp bế tắc, không lối thoát: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bụng ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi.” Tô Hoài chỉ trong một đoạn văn ngắn nhưng đã sử dụng rất nhiều những từ ngữ chỉ thời gian: “tết xong”, “giữa năm”, “đến mùa”… Thời gian liên tục ấy như vòng xoáy nghiệt ngã đã đổ ập lên đầu Mị. Phép liệt kê được Tô Hoài sử dụng trong đoạn văn mang đến cho người đọc nỗi ám ảnh về cuộc sống địa ngục trong nhà thống lý. Mị như bị khối lượng công việc đồ sộ đè lên cuộc đời: hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp, hái củi, bung ngô, tước đay… Với số lượng công việc ấy, Mị dường như không thể nào còn biết đến niềm vui là gì bởi phải làm việc quần quật, không được nghỉ tay, nghỉ mắt. Trong nỗi thống khổ cùng cực, Mị lại một lần nữa so sánh thân phận mình: “con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân nhai cỏ”. Còn “đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm cả ngày”. Một bên thong thả nghỉ ngơi “đứng gãi chân nhai cỏ”, một bên “vùi vào làm việc cả đêm cả ngày” đã nói hết được tất cả những khổ đau mà Mị phải gánh chịu. Ở một đoạn văn sau đó, có lần chính Mị cũng đã thổn thức nhận ra “mình không bằng con ngựa”. Đó là kiếp sống súc nô đầy đau đớn của Mị trong nhà thống lý.    Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Lần lần mấy năm qua mấy năm sau
Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Không chỉ bị cường quyền đọa đày về thể xác, Mị còn bị thần quyền làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết ý thức phản kháng. Nếu đồng tiền có thể nô lệ hóa thể xác buộc Mị trở thành công cụ lao động thì thần quyền lại có thể nô lệ hóa tinh thần khiến Mị trở thành người đàn bà chai sạn, vô cảm. Thần quyền như nọc độc, nó không giết con người ngay mà nó từ từ làm tê liệt tinh thần, triệt tiêu cảm xúc, mất hết ý thức phản kháng. Bằng chứng là Mị đã dần quên đi tiếng nói của chính mình, Mị cô độc ngay giữa không gian nhà giàu với kiếp sống “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Từ láy “lùi lũi” và phép so sánh gợi lên hình ảnh một cô Mị với kiếp sống mới mòn, cô đơn, buồn bã, sống mà như đã chết, vật vờ, câm lặng. Nơi Mị sống là một căn buồng “kín mít”, độc một ô cửa “một lỗ vuông bằng bàn tay”. Hai chữ “kín mít” gợi cảnh sống tù túng, ngột ngạt, tăm tối, thiếu dưỡng khí. Phép so sánh gợi lên hình ảnh một chốn ngục tù, một địa ngục trần gian đang giam giữ cuộc đời Mị. Cảnh sống tăm tối, một mờ đó khiến cho mọi thứ đều tối sầm lại. Không gian bên trong nhìn qua ô cửa đó chỉ thấy “trăng trắng không biết sương hay là nắng”. Từ láy “trăng trắng” gợi tả ánh sáng mờ nhạt, u ám, lạnh lẽo. Câu hỏi tu từ “không biết sương hay là nắng” thể hiện sự băn khoăn, mơ hồ càng làm cho hình ảnh căn buồng và ô cửa số trở nên ngột ngạt, bức bối. Ngoài ô cửa kia là thế giới của tự do, của hạnh phúc, tình yêu, là thế giới của thiên đường. Còn bên trong lại là chốn địa ngục. Mị mất hết ý niệm về thời gian, không gian. Mị không còn nhớ được mình đã bị bắt vào nhà thống lý đã bao lâu; Mị cũng không biết bên ngoài ô cửa đó là gì. Mị chỉ biết, ngồi trong ô cửa ấy “trông ra đến bao giờ chết thì thôi”. Đó là kiếp sống bị đày đọa, bị cầm tù về thể xác và tinh thần, một cuộc sống tù túng mất tự do.      Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Đoạn trích tiếp theo là vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên miền Tây thơ mộng, trữ tình và không khí náo nức đón xuân trên mảnh đất Hồng Ngài. Đây cũng là lúc sức sống trong Mị trỗi dậy.Sức sống ấy trước hết được gợi lên từ không khí rộn rã của ngày xuân. Mùa xuân đã mang sức sống, sự hồi sinh cho thiên nhiên và con người. Người Mèo ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong. Niềm vui xuân về có thêm niềm vui thu hoạch mùa màng. Cái tết năm ấy đến giữa lúc “gió và rét dữ dội”, nhưng vẫn không ngăn được sắc màu của hoa có mùa xuân. Màu “có giành vàng ửng” gợi ra một thiên nhiên Tây Bắc nên thơ. Sắc màu còn trở nên tươi tắn, đẹp để hơn nữa qua hình ảnh “những chiếc váy hơn đã đem phơi trên mõm đá xoè như con bướm sặc sỡ”. Từ láy “sặc sỡ” trong phép so sánh sắc màu khiến hình ảnh những chiếc váy hoa của những cô gái Mèo trở nên lộng lẫy, tươi thắm, quyến rũ. Hòa vào sắc màu là những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân “đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”, “trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, chơi quay, thổi sáo, thổi khèn”. Sức sống của tạo vật và con người bừng tỉnh. Miền đất Tây Bắc vắng lặng bỗng trào lên sức sống. Có thể nói trong đoạn văn này ngòi bút Tô Hoài, có dịp bộc lộ vẻ đẹp chất thơ, cái mảng trời tươi sáng của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đất trời náo nức vào xuân cũng là sự náo nức rạo rực trong lòng Mỹ. Mùa xuân là cơn gió lành xâm chiếm tâm hồn Mị, lay động tâm hồn ấy làm mặt hồ yên tĩnh trong tâm hồn Mị xao động.    Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Đoạn trích tiếp theo là vẻ đẹp tâm hồn nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt. Và giữa lúc Mị đang rơi vào trạng thái tê liệt về tinh thần thì cũng là lúc Tô Hoài xuất hiện với tấm lòng nhân đạo cao cả. Nhà văn đã bênh vực cho quyền sống của con người, phát hiện, trân trọng và ngợi ca sức sống của con người. Tô Hoài nhận ra rằng: “dầu trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực tội ác cũng không thể tiêu diệt được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”. Bằng ngòi bút miêu tả tâm lý sắc sảo, tinh tế, Tô Hoài đã ghi lại những chuyển biến hết sức chân thực tâm trạng Mị khi tiếng sáo gọi bạn tình vọng lại.         Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Câu văn trần thuật mở ra thế giới tâm hồn của Mị: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Hai chữ “lấp ló” vốn là từ láy tượng hình nay được Tô Hoài dùng miêu tả âm thanh, nó gợi ra âm thanh tiếng sáo lúc thì nghe rõ, lúc lại mơ hồ, mông lung. Âm thanh ấy lại đi liền với sắc thái tu từ “đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” làm cho lòng Mị càng thêm bâng khuâng, xao xuyến. Tiếng sáo là một ẩn dụ nghệ thuật được. Tô Hoài khắc họa như một hình tượng. Tiếng sáo là hiện thân của Mị – hiện thân của tuổi trẻ, khát vọng tự do; hiện thân của ký ức tươi đẹp, của những ngày êm đềm, vui tươi, hạnh phúc bên chàng trai có ngón tay đeo nhẫn quen thuộc. Tiếng sáo bay xa, vang vọng làm sống lại ký ức của một thời tuổi trẻ lắm mộng mơ, giàu khát vọng. Có lẽ chính vì vậy mà khi tiếng sáo vọng về, Mị không chỉ cảm nhận tiếng sáo bằng thính giác mà còn cảm nhận nó bằng cả tâm hồn: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi”. Cái “vọng lại” ấy không chỉ là cái vọng lại của tiếng sáo trong hiện tại mà còn có cả âm thanh của ký ức vọng về. Bởi vậy Mị mới thấy “thiết tha bổi hổi”, đó là cảm xúc rạo rực, say đắm, thổn thức, hân hoan của trái tim Mị khi được tiếng sáo chạm đến, vừa là sự bồi hồi của con tim khi tìm về ký ức. Mị như đang lắng nghe từng lời tha thiết trong tiếng sáo, cảm nhận được sự “bổi hổi – thiết tha” trong từng âm vang của tiếng sáo, cũng như cảm nhận được tấm lòng, tâm hồn của người đang thổi. Hay đó chính là nhịp đập trái tim Mị cũng như đang thổn thức rung động theo từng giai âm của tiếng sáo. 

Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Sứ mệnh của thể loại truyện ngắn đặt lên vai các chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn là những người tí hon mang nhiệm vụ khổng lồ”. Từ điển “Thuật ngữ văn học” nhận định: “Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.” Đó chính là những ý kiến, những nhận định không hề hoa mĩ dành cho các nhà văn, vì hơn ai hết các nhà văn hiểu rằng: “nếu tình huống truyện là bước ngoặt của tác phẩm thì chi tiết nghệ thuật lại là cái bánh lái bẻ nên đường cua tuyệt diệu ấy” (Leonop-Lêônit). Tô Hoài có biệt tài tạo nên những chi tiết đắt giá, nhưng cái tài của ông là ông không sáng tạo gượng ép mà để nó tự nhiên trong mạch ngầm dạt dào của tác phẩm. Hiểu theo nghĩa ấy, thì chi tiết tiếng sáo là một chi tiết “nâng tầm Tô Hoài” (Đỗ Kim Hồi), bởi nếu không có chi tiết tiếng sáo thì Mị mãi mãi chỉ là cái bóng u uẩn lặng câm trong kiếp sống mỏi mòn. Tô Hoài từng tâm sự rằng: “Tiếng sáo kia quá tha thiết, quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, nó là biểu tượng của niềm khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao khát tự do nữa”. Có lẽ vì vậy mà lúc đầu nghe tiếng sáo, Mị thấy “thiết tha bồi hồi”, còn bây giờ “Mị ngồi nhẩm thầm lời người đang thổi sáo”:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Điệu sáo ấy lâu rồi Mị không thổi nữa, bài hát ấy lâu rồi Mị cũng không hát nữa. Nhưng Mị vẫn thuộc, vẫn nhớ – nghĩa là Mị không hoàn toàn vô cảm. Nguyễn Minh Châu quả thật có lý khi cho rằng: “Rất nhiều tác giả của những truyện ngắn hay là những người cầm bút có cái biệt tài có thể chọn trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất (…), thậm chí có khi đó là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người”. Phải chăng, trong khoảnh khắc tiếng sáo “lửng lơ bay” ngoài đường thì cũng là lúc ống kính nghệ thuật của Tô Hoài cũng bắt trọn vẹn khoảnh khắc tâm hồn Mị đột ngột hồi sinh. Khoảnh khắc ấy như một cuốn phim quay chậm rõ nét, chân thực và tinh tế khiến mọi thứ như “đậm đặc” và ánh lên niềm đồng cảm, trân trọng của nhà văn. Tiếng sáo ấy đã thức dậy cả mùa xuân trong Mị, thức dậy cả ký ức xa xôi những ngày xuân đến. Điều ấy làm ta chợt nhớ đến một anh Chí bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say dài bởi tiếng “chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về”. Chính những vang vọng của cuộc sống đánh thức những con người vốn bị lãng quên trong tận cùng của đau khổ. Mị cũng như anh Chí  kia quả thật đã tỉnh giấc sau một cơn mê dài.   Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Phần sau của tác phẩm là diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân với khát vọng tự do cháy bỏng. Kết thúc đoạn trích là sức phản kháng mãnh liệt của Mị – Mị cởi trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sang Phiềng Sa xây dựng cuộc đời mới.

Lần lần mấy năm qua mấy năm sau
Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Nghệ thuật: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc. Trần thuật hấp dẫn, giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo, đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ. Cách dựng cảnh, tạo không khí, miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi chân thực, sống động. Giọng văn chậm buồn, day dứt, trăn trở, yêu thương.    Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Lần lần mấy năm qua mấy năm sau
Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Giá trị nhân đạo: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã bộc lộ giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua việc khắc hoạ cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị, nhà văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời qua sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (và sau đó là sức sống, sức phản kháng quyết liệt trong đêm cởi trói cho A Phủ), nhà văn cũng khẳng định và lên tiếng bênh vực cho những khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Qua đó nhà văn cũng đã góp phần giải phóng số phận nhân vật, đây chính là điểm mới trong giá trị nhân đạo của các tác phẩm sau năm 1945.    Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Có thể nói, đoạn văn trên tuy ngắn gọn nhưng cũng đã thể hiện rất thành công giá trị nhân đạo của tác phẩm. Sê-khốp từng nói “Mỗi nhà văn là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Quả đúng như vậy, nhà văn Tô Hoài, bằng tình yêu thương, tấm lòng trân trọng của mình dành cho người lao động Tây Bắc đã để lại giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ chồng A Phủ”. Đoạn trích nói riêng và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nói chung để lại giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đồng cảm, cảm thông cho số phận nhân vật, góp tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi đã áp bức, bóc lột nhân dân lao động Tây Bắc, đẩy họ vào số phận trâu ngựa. Qua việc khắc họa nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng ngợi ca phẩm chất cao quý của con người lao động Tây Bắc, đồng thời bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào sức vươn dậy của con người, dù trong hoàn cảnh đọa đày, sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt trong họ cũng không hề mất đi mà sẽ càng trở nên mãnh liệt. Chính Tô Hoài cũng từng nhận xét về Mị: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã. Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng. mãnh liệt”. Cuối cùng nhà văn đã góp phần giải phóng số phận nhân vật trong một kết thúc có hậu. Đây chính là nét mới trong giá trị nhân đạo sau năm 1945.   Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

Lần lần mấy năm qua mấy năm sau
Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

KẾT BÀI: Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là truyện ngắn có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc khi lên án thể lực cường quyền, thần quyền lạc hậu, bạo làn ở vùng núi Tây Bắc đã đẩy con người vô tội vào tận cùng của đau khổ, đọa đày. Đồng thời, qua nhân vật Mị nhà văn đã bày tỏ tiếng nói cảm thông, trân trọng đối với người lao động nghèo. Nhà văn đồng cảm với số phận đau khổ, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc đồng thời ca ngợi, trận trọng sức sống tiềm tàng bên trong những con người khốn khổ ấy. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo lớn lao của tác phẩm. Qua vẻ đẹp tâm hồn con người lao động Tây Bắc, mỗi chúng ta phải tự nhắc nhở mình phải biết sống, biết yêu quý, biết trận trọng con người lao động nói chung, biết đấu tranh bảo vệ công lý, lẽ phải, đấu tranh với những bất công để bảo vệ hai chữ “Con Người” cao quý thiêng liêng.   

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

Lần lần mấy năm qua mấy năm sau

(Nguồn: Tham khảo) 

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *