Giới thiệu đến các bạn bài viết nghị luận văn học bài Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn văn bản: Ngày tết Mị cũng uống rượu dàn ý Hoặc: Ngày tết Mị cũng uống rượu … em không yêu quả pao rơi rồi.  Mời các bạn cùng tham khảo!  

ĐỀ: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Cảm nhận đoạn trích: 

“Ngày Tết. Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đây nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết.

Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi…”

Từ đoạn trích, anh chị có nhận xét gì về giá trị nhân đạo.

(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

MỞ BÀI: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Có ai đó đã ví “sáng tạo nghệ thuật giống như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc”. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Quả đúng như vậy, cuộc sống giống như một nghiên mực mà nhà văn phải chấm bút vào đấy, bởi nếu không xuất phát từ hiện thực thì văn chương cũng chỉ là “ánh trăng lừa dối” mà thôi. Điều ấy gợi cho ta nhớ đến nhà văn Tô Hoài và mối lương duyên của ông với vùng đất Tây Bắc. Với Tô Hoài thì “miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều”. Và phải chăng chính vẻ đẹp tâm hồn con người lao động và thiên nhiên nơi đây đã thổi hồn vào những trang viết của nhà văn và để lại ấn tượng sâu đậm qua “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm là kết tinh của tình yêu, niềm cảm thông sâu sắc, khát vọng tự do cho con người… Điều đó đã được Tô Hoài khắc họa một cách chân thực và cảm động, đặc biệt là qua hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích:

“Ngày tết Mị cũng uống rượu […] em không yêu, quả Pao rơi rồi”. 

Từ đó, làm bật lên giá trị nhân đạo của tác phẩm. 

Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý
Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

THÂN BÀI: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Khái quát tác giả, tác phẩm: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có – nhiều khi rất bình dân, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người lao động nơi đây.  Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Thành công của tác phẩm này chính là đã làm nổi bật vẻ đẹp sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của con người lao động Tây Bắc thông qua hai nhân vật Mị và A Phủ.  Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Mị là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo. Vì món nợ nặng lãi của cha mẹ, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lý. một cô gái xinh đẹp nhưng vì món nợ nhà giàu nên buộc phải làm cô dâu trả nợ. Cuộc sống thống khổ, Mị bị áp bức bóc lột, bị thần quyền áp chế khiến Mị trở thành người đàn bà chai sạn, sống u uẩn, cổ độc, mỏi mòn như chiếc bóng. Mùa xuân năm ấy tới, với sự tác động của ngoại cảnh, đặc biệt là tiếng sáo, Mị dần hồi sinh mạnh mẽ.   Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý
Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Triển khai nội dung phân tích: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Đoạn văn mở đầu là sức phản kháng mãnh liệt, sự nổi loạn của Mị trong đêm tình mùa xuân, cô tìm đến men rượu, mượn rượu để quên đi thực tại. Câu văn mở đầu là một thông báo ngắn gọn: “ngày tết Mị cũng uống rượu”. Hai chữ “cũng uống” gợi ra hình ảnh bình thường, uống rượu không có gì là lạ với đồng bào vùng cao mỗi độ tết đến xuân về, uống rượu để chào xuân, uống rượu còn là cách giữ ấm cho cơ thể. Chỉ lạ là: “cứ uống ực từng bát”, “ực” là từ mô phỏng âm thanh, đồng thời là miêu tả về từng hớp rượu lớn. Cách uống đó thể hiện con người đang trong tình trạng uất ức, căm phẫn, uống mà như nuốt hận vào lòng; uống như muốn mượn cái đắng của rượu mà quên cái đắng cay trong lòng. Rượu làm Mị say “lịm mặt”. Con say khiến Mị dường như xóa mờ hiện tại, Mị mặc cho không khí chung quanh mình đang náo động “người nhảy đồng, người hát”. Tâm hồn Mị đang sống về quá khứ trong tiếng sáo “văng vàng gọi bạn đầu làng”. Từ láy “văng vẳng” không chỉ miêu tả tiếng sáo của hiện tại mà còn là âm thanh của ký ức, của hoài niệm đưa Mị trở về với quá khứ đẹp tươi với những tháng ngày tự do tuổi trẻ hạnh phúc ấm êm bên chàng trai có ngón tay đeo nhẫn quen thuộc. Đó là quá khứ của một cô Mị trẻ đẹp “thổi sáo hay, thối lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Tiếng sáo như chiếc cầu nối đưa Mị trở đi trở lại giữa hai thế giới say – tỉnh; nhớ – quên; quá khứ – hiện tại, tất cả đều biểu hiện sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của Mị. 

Đoạn văn tiếp theo là vẻ đẹp sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của nhân vật Mị. Có thể nói men rượu và men tình bùng cháy đánh thức khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc làm sức sống tiềm tàng, sức phản kháng trong Mị trỗi dậy mãnh liệt. Câu văn mở đầu là lời trần thuật chậm buồn: “Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi tro một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng”. Những câu văn chậm rãi như nhịp điệu mỏi mòn, tê dại gợi tả hình ảnh Mị như chiếc bóng câm lặng vật vờ trong đêm. Và như thói quen “Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng”. Thực chất đó là hành động mang thói quen vô thức của một con người bị đè nén quá lâu khiến sức sống, khát vọng hạnh phúc vừa trở dậy lại bị trì kéo. Và rồi cứ hễ vào buồng Mị lại “ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”.  Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý
Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Từ điển “Thuật ngữ văn học” nhận định: “Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.” Đó chính là những ý kiến, những nhận định không hề hoa mĩ dành cho các nhà văn, vì hơn ai hết các nhà văn hiểu rằng: “nếu tình huống truyện là bước ngoặt của tác phẩm thì chi tiết nghệ thuật lại là cái bánh lái bẻ nên đường cua tuyệt diệu ấy” (Lêonop-Lêônit). Tô Hoài có biệt tài tạo nên những chi tiết đắt giá, nhưng cái tài của ông là ông không sáng tạo gượng ép mà để nó tự nhiên trong mạch ngầm dạt dào của tác phẩm. Hiểu theo nghĩa ấy thì chi tiết Mị ngồi nhìn ra ô cửa lỗ vuông là một chi tiết đặc biệt. Dường như cái ô cửa ấy là nơi duy nhất lúc này Mị hướng về. Phía đó có ánh sáng. Căn buồng là địa ngục, ngoài ô cửa lỗ vuông kia là thiên đường. Ngoài kia, giai điệu tình yêu đang vang lên réo rắt, tiếng sáo gọi bạn tình lửng lơ bay, ngoài kia tự do đang vẫy gọi, đêm tình đang tới. Ngoài kia hạnh phúc bao nhiêu, trong đây lại tủi nhục bấy nhiêu. Nhưng sự tủi nhục không ngăn được lòng yêu tự do của Mị, bởi: “đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Những từ ngữ như “phơi phới”, “đột nhiên vui sướng” đã diễn tả rất chân thật niềm vui sướng, hân hoan, phấn chấn, hào hứng của Mị lúc này. Hai chữ “đột nhiên” gợi tả cảm xúc đột ngột, bất ngờ, khiến cho Mị như bừng tỉnh. Bằng cách so sánh “vui như những đêm tết ngày trước” tác giả Tô Hoài đã đưa người đọc cùng Mị trở về với quá khứ tươi đẹp, êm đềm của cô. Chính ảo giác tạo ra từ tiếng sáo, từ quá khứ mãnh liệt đến mức gần như xóa mờ những bất hạnh của hiện tại khiến cảm giác hạnh phúc cứ tràn ngập lâng lâng. Một người con gái tràn đầy sức sống yêu đời khát khao hạnh phúc bị đè nén đày đọa trong đau khổ tủi nhục đến thành câm lặng tê liệt. Giờ đây sức sống bừng bừng trỗi dậy mọi cảm xúc khát vọng lại bùng lên. Có một sức sống mới, một luồng sinh khí mới đang hồi sinh đang trỗi dậy trong tâm hồn Mị, trong cơ thể Mị. Sức sống lâu nay bị đè nén bỗng trào lên không gì có thể dập tắt được. Trong sự thăng hoa của cảm xúc, Mị nhận ra: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Ba câu văn sử dụng phép điệp cấu trúc kết hợp kiểu câu đơn ngắn tạo nên nhịp điệu dồn dập, thể hiện niềm vui sướng mãnh liệt và khát vọng tự do cháy bỏng đang thôi thúc mãnh liệt trong Mị. Có thể nói, Tô Hoài đã thể hiện được sự chân thực của tâm trạng Mị, ở đây vừa là sự nhập thân, hóa thân vào nhân vật vừa là sự tinh tế nhạy cảm hiểu biết trong quá trình diễn biến nội tâm của nhân vật. Chính vì thế đoạn văn có sức thuyết phục đối với người đọc. Nhưng chính sự hồi sinh ấy cũng đưa Mị đến với một cảm xúc bi kịch. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến Mị phản kháng lại hoàn cảnh. Mị tủi thân khi nghĩ về A Sử, nhận ra cuộc hôn nhân không hạnh phúc, thấy được thực tại tủi nhục ê chề: “A Sử chẳng bao giờ cho Mị đi chơi tết”. Thấy được A Sử với Mị “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Cảm xúc Mị trở nên tiêu cực: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Trước đây, Mị không đành lòng chết bởi thương cha; đến khi cha Mị chết rồi, sự ràng buộc đã không còn nữa, nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến cái chết. Cái thực tế đau khổ mà cô đã quen, đã thờ ơ chấp nhận đến mức không còn tưởng đến sự chết nữa, nay bỗng trở nên phi lí đến mức không thể chấp nhận, vì vậy, khao khát được chết cũng chính là biểu hiện cao độ nhất của sự thức tỉnh, sự phản kháng với hoàn cảnh. Như vậy, khi linh hồn đã trở về, Mị không chỉ ý thức được giá trị của tinh thần mà còn ý thức được hoàn cảnh sống nghiệt ngã. Muốn chết cũng là sự thể hiện rất mãnh liệt sức sống tiềm tàng ẩn chứa trong tâm hồn cô gái Mèo.   Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý
Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Đoạn trích khép lại bằng âm thanh tiếng sáo gọi bạn tình như đang cứu rỗi linh hồn Mị, đang tiếp đà hồi sinh mạnh mẽ trong Mị, sức phản kháng trong Mị cũng trỗi dậy mãnh liệt.   Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

“… mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường. 

Anh ném pao, em không bắt 

Em không yêu, quả pao rơi rồi”

“Quá khứ hiện tại giằng xé trong tâm hồn Mị tạo ra nỗi đau. Hiện tại thì tăm tối ngột ngạt “mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Câu văn miêu tả tiếng sáo có chữ “mà” đứng ở đầu câu. Chữ “mà” diễn tả một sức mạnh không cưỡng được của tiếng gọi tự do, tiếng gọi tình yêu. Chữ “mà” diễn đạt tự do tình yêu như một điều tất yếu, nó thiết tha lay tỉnh và thức dậy quá khứ đẹp đẽ náo nức trong lòng Mị, thức dậy tuổi xuân, thức dậy khát khao hạnh phúc.” (Lưu Đức Hạnh) Để rồi tất cả bừng dậy sức sống nội tâm mãnh liệt nồng nàn trong tâm hồn Mị. Từ đây Mị không còn sống với hiện tại nữa, tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo, tiếng sáo đầy mê hoặc, quyến rũ, như lôi kéo Mị, đưa Mị từ vực sâu của tuyệt vọng thăng hoa trở lại cùng khát vọng tự do. Có thể nói: chính tiếng sáo làm Mị ý thức sâu sắc hơn bi kịch của mình, từ đó tự đánh thức mình bằng khát vọng tự do. Để rồi sau đó Mị đã thắp đèn, rút váy hoa, quấn lại tóc sửa soạn đi chơi. Đó là lúc ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị, bất chấp sự hiện diện của A Sử. Giờ đây, bóng đêm của cường quyền bạo ngược và thần quyền đã không thể nào vùi dập được Mị, bởi khát vọng tự do trong Mị đang lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt trong Mị bùng cháy ngay cả trong hoàn cảnh bị vùi dập. Bị trói nhưng Mị không biết mình đang bị trói, tâm hồn Mị vẫn đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy chính là tiền đề cho việc cởi trói cho A Phủ và chạy thoát khỏi Hồng Ngài sau này.    Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Nghệ thuật: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc. Trần thuật hấp dẫn, giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo, đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ. Cách dựng cảnh, tạo không khí, miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi chân thực, sống động. Giọng văn chậm buồn, day dứt, trăn trở, yêu thương.   Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý
Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Giá trị nhân đạo: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã bộc lộ giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua việc khắc hoạ cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị, nhà văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời qua sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (và sau đó là sức sống, sức phản kháng quyết liệt trong đêm cởi trói cho A Phủ), nhà văn cũng khẳng định và lên tiếng bênh vực cho những khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Qua đó nhà văn cũng đã góp phần giải phóng số phận nhân vật, đây chính là điểm mới trong giá trị nhân đạo của các tác phẩm sau năm 1945.    Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Có thể nói, đoạn văn trên tuy ngắn gọn nhưng cũng đã thể hiện rất thành công giá trị nhân đạo của tác phẩm. Sê-khốp từng nói “Mỗi nhà văn là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Quả đúng như vậy, nhà văn Tô Hoài, bằng tình yêu thương, tấm lòng trân trọng của mình dành cho người lao động Tây Bắc đã để lại giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ chồng A Phủ”. Đoạn trích nói riêng và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nói chung để lại giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đồng cảm, cảm thông cho số phận nhân vật, góp tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi đã áp bức, bóc lột nhân dân lao động Tây Bắc, đẩy họ vào số phận trâu ngựa. Qua việc khắc họa nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng ngợi ca phẩm chất cao quý của con người lao động Tây Bắc, đồng thời bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào sức vươn dậy của con người, dù trong hoàn cảnh đọa đày, sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt trong họ cũng không hề mất đi mà sẽ càng trở nên mãnh liệt. Chính Tô Hoài cũng từng nhận xét về Mị: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã. Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng. mãnh liệt”. Cuối cùng nhà văn đã góp phần giải phóng số phận nhân vật trong một kết thúc có hậu. Đây chính là nét mới trong giá trị nhân đạo sau năm 1945.     Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý
Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

KẾT BÀI: Ngày tết mị cũng uống rượu dàn ý

“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là truyện ngắn có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc khi lên án thể lực cường quyền, thần quyền lạc hậu, bạo làn ở vùng núi Tây Bắc đã đẩy con người vô tội vào tận cùng của đau khổ, đọa đày. Đồng thời, qua nhân vật Mị nhà văn đã bày tỏ tiếng nói cảm thông, trân trọng đối với người lao động nghèo. Nhà văn đồng cảm với số phận đau khổ, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc đồng thời ca ngợi, trận trọng sức sống tiềm tàng bên trong những con người khốn khổ ấy. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo lớn lao của tác phẩm. Qua vẻ đẹp tâm hồn con người lao động Tây Bắc, mỗi chúng ta phải tự nhắc nhở mình phải biết sống, biết yêu quý, biết trận trọng con người lao động nói chung, biết đấu tranh bảo vệ công lý, lẽ phải, đấu tranh với những bất công để bảo vệ hai chữ “Con Người” cao quý thiêng liêng.

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

(Nguồn: Tham khảo)

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *