Giới thiệu đến các bạn bài viết nghị luận văn học bài Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn văn bản: Bây giờ Mị cũng không nói ; Hoặc “Bây giờ Mị cũng không nói […] Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Mời các bạn cùng tham khảo!  

ĐỀ: Bây giờ Mị cũng không nói

Cảm nhận đoạn trích:   Bây giờ Mị cũng không nói

“Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi: 

– Mày muốn đi chơi à ?

Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không củi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.

Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.”

Từ đoạn trích, anh chị có nhận xét gì về giá trị nhân đạo.

(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục)

“Bây giờ Mị cũng không nói […] Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. 

Bây giờ Mị cũng không nói
Bây giờ Mị cũng không nói

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI: Bây giờ Mị cũng không nói

MỞ BÀI: Bây giờ Mị cũng không nói

Có ai đó đã ví “sáng tạo nghệ thuật giống như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc”. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Quả đúng như vậy, cuộc sống giống như một nghiên mực mà nhà văn phải chấm bút vào đấy, bởi nếu không xuất phát từ hiện thực thì văn chương cũng chỉ là “ánh trăng lừa dối” mà thôi. Điều ấy gợi cho ta nhớ đến nhà văn Tô Hoài và mối lương duyên của ông với vùng đất Tây Bắc. Với Tô Hoài thì “miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều”. Và phải chăng chính vẻ đẹp tâm hồn con người lao động và thiên nhiên nơi đây đã thổi hồn vào những trang viết của nhà văn và để lại ấn tượng sâu đậm qua “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm là kết tinh của tình yêu, niềm cảm thông sâu sắc, khát vọng tự do cho con người… Điều đó đã được Tô Hoài khắc họa một cách chân thực và cảm động, đặc biệt là qua hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích:

“Bây giờ Mị cũng không nói […] Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. 

Từ đó, làm bật lên giá trị nhân đạo của tác phẩm.     

Bây giờ Mị cũng không nói
Bây giờ Mị cũng không nói

THÂN BÀI: Bây giờ Mị cũng không nói

Khái quát tác giả, tác phẩm: Bây giờ Mị cũng không nói

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có – nhiều khi rất bình dân, nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc, tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người lao động nơi đây.  Bây giờ Mị cũng không nói

Truyện “Vợ chồng A Phủ” được nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Thành công của tác phẩm này chính là đã làm nổi bật vẻ đẹp sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của con người lao động Tây Bắc thông qua hai nhân vật Mị và A Phủ.   Bây giờ Mị cũng không nói

Mị là cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo. Vì món nợ nặng lãi của cha mẹ, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lý. một cô gái xinh đẹp nhưng vì món nợ nhà giàu nên buộc phải làm cô dâu trả nợ. Cuộc sống thống khổ, Mị bị áp bức bóc lột, bị thần quyền áp chế khiến Mị trở thành người đàn bà chai sạn, sống u uẩn, cổ độc, mỏi mòn như chiếc bóng. Mùa xuân năm ấy tới, với sự tác động của ngoại cảnh, đặc biệt là tiếng sáo, Mị dần hồi sinh mạnh mẽ.   Bây giờ Mị cũng không nói

Bây giờ Mị cũng không nói
Bây giờ Mị cũng không nói

Triển khai nội dung phân tích: Bây giờ Mị cũng không nói

Đoạn trích mở đầu bằng khát vọng tự do mãnh liệt đang bùng cháy trong Mị, điều này khiến cô gái trẻ ấy càng trở nên mạnh mẽ, khao khát tự do càng trở nên cháy bỏng. Tô Hoài miêu tả tâm trạng và hành động Mị trong hình ảnh đang sửa soạn đi chơi thật chi tiết và cảm động: “Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo”. Đoạn văn sử dụng phép điệp cấu trúc, phép liệt kê, nhịp điệu câu văn dồn dập; nhiều động từ được huy động để tả hành động: “đến”, “lấy”, “xắn”, “bỏ”, “sáng”, “đi chơi”, “với tay lấy”, “rút”. Từ đó khiến người đọc hình dung rõ nét hơn hình ảnh của Mị. Tâm hồn Mị đang náo nức, rạo rực. Mị như đang bị cuốn theo tiếng sáo khiến cho hành động nào cũng trở nên gấp gáp. Bên ngoài là một cô Mị lầm lì, không nói, nhưng bên trong sức sống đang trào sôi trỗi dậy. Từ ý thức đến hành động Mị xắn thêm một ít mỡ bỏ vào dĩa đèn, người phụ nữ ấy thắp lửa cho căn buồng hay đang tự sưởi ấm lại lòng mình? Ánh sáng ở đây phải chăng là sự trở lại của tâm hồn, sự sống dậy của ý thức tuổi trẻ bấy lâu vùi dập, bị quên lãng.   Bây giờ Mị cũng không nói

Mị khao khát được đi chơi xuân, muốn được hòa mình vào tiếng sáo mà tìm lại tuổi trẻ, tìm lại tự do, để yêu và được yêu. Điều này làm Mị càng náo nức “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi”. Ở đây, ngôn ngữ trần thuật đã hòa quyện với tiếng nói vọng về từ sâu thẳm tâm hồn nhân vật làm cho khát vọng sống càng trở nên mãnh liệt. Tô Hoài rất tài hoa khi hữu hình hóa âm thanh, lúc ở xa thì tiếng sáo “lấp ló”, lúc ở gần thì tiếng sáo “rập rờn” trong hồn Mị, nó tha thiết, thúc giục, tựa như chính tâm hồn Mị đang ngân nga. Hai chữ “rập rờn” cho thấy sự quyến rũ của tiếng sáo, tiếng sáo như gọi mời tha thiết, làm tâm hồn Mị cũng như đang nhảy múa. Hình ảnh “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa… rút thêm cái áo” gợi lên bao rạo rực mê say trong tâm hồn người con gái trẻ. Mị ý thức được người con gái Mèo đẹp nhất khi khoác lên mình trang phục váy hoa, Mị ý thức được nhan sắc của mình trong hành động quấn lại tóc. Đây là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh tâm lý.

Đoạn trích tiếp theo là hành động tàn nhẫn, thú tính của A Sử được ngòi bút hiện thực của Tô Hoài miêu tả một cách chân thực. Đúng lúc lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc trổi dậy mạnh mẽ nhất cũng là lúc bị vùi dập phũ phàng nhất. Mị bị A Sử trói đứng vào cột: “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quân luôn tóc lên cột, làm cho Mị không củi, không nghiêng được đầu nữa.” Hành động tàn độc của A Sử chỉ có thể lý giải bằng sự độc ác, gia trưởng, vũ phu, tàn bạo. Các từ ngữ miêu tả như “trói hai tay”, “trói đứng Mị vào cột nhà”, “quẩn luôn tóc lên cột” cho thấy tội ác của A Sử chẳng khác gì tội ác trung cổ. Đỉnh điểm của tội ác này chính là sự vô cảm, lạnh lùng của A Sử: “Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép của buồng lại.” Câu văn trần thuật chậm rãi, bình thản như chính sự bình thản, thản nhiên của tội ác. Đó là hiện thực tàn bạo mà những người nô lệ trong nhà thống lý Pá Tra phải gánh chịu, là hình phạt cho sự nổi loạn. Thêm một lần cuộc đời lại đóng sầm trước mắt Mị.

Bây giờ Mị cũng không nói
Bây giờ Mị cũng không nói

Sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt trong Mị bùng cháy ngay cả trong hoàn cảnh bị vùi dập. Câu văn đầu mở ra hình ảnh tội nghiệp của Mị: “Trong bóng tối, Mỹ đừng im lặng như không biết mình đang bị trói”. Cái “im lặng như không biết mình đang bị trói” ấy không phải là sự vô cảm, sự nhẫn nhục thường thấy ở người đàn bà này. Bị trói, thậm chí là trói bằng cả một thúng sợ đay, người phụ nữ yếu ớt ấy sao có thể chịu được trước cường quyền. Nhưng không, sức mạnh của khát vọng tự do đã khiến Mị tạm thời quên đi nỗi đau thể xác. Mà cũng có thể bởi cơn say vẫn còn vì “Hơi rượu còn nồng nàn” hoặc có thể là tiếng sáo đang ru hồn Mị đưa Mị đến với thế giới đêm tình trong ảo giác hạnh phúc: “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Dù bị vùi dập phũ phàng nhưng khát vọng tự do trong Mị không hề mất đi. Thể xác Mị nằm đây giữa bốn bức tường lạnh lẽo, nhưng tâm hồn Mị đã nương theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình, Mị vẫn “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Ảo giác hạnh phúc và khát vọng tự do đã làm Mị quên đi nỗi đau thể xác. Tâm hồn Mị mộng du theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Vậy là, tội ác của nhà Thống lý chỉ có thể trói buộc được thể xác của Mị, nhưng chúng không thể giam cầm được tình yêu tự do của con người lao động.  Bây giờ Mị cũng không nói

Men rượu chưa tan, men rượu còn nồng nàn trong Mị, hương rượu quyện hòa trong hương thơm của men tình dặt dìu theo tiếng sáo. Nếu trước đó tiếng sáo là tác nhân đã phá tan lớp băng vô cảm, đã mở toang cánh cửa trái tim Mị để đón nhận hương đời. Thì nay, sáo đã trao cho Mị chiếc chìa khóa vàng để lòng khát khao sống, khát khao yêu được bùng cháy. Lúc này đây trong cơn say, tiếng sáo lại một lần nữa đến bên Mị, cứu rỗi linh hồn Mị, dìu Mị đi trong những “cuộc chơi, những đám chơi”. Tình yêu của Mị dành cho tuổi trẻ, cho cuộc đời còn nồng nàn lại được tiếng sáo nâng đỡ, dìu dắt khiến cho tình yêu ấy càng đắm say, ngây ngất. Tiếng sáo đã không còn “lửng lơ bay ngoài đường” nữa mà đã nhập vào hồn Mị. Tâm hồn Mị như rung lên cùng nhịp sáo:

“Em không yêu, quả pao rơi rồi 

Em yêu người nào, em bắt pao nào”

Có thể nói, tiếng sáo là chi tiết hay nhất trong “Vợ chồng A Phủ”, là “hạt bụi vàng” của tác phẩm. Nhờ chi tiết tiếng sáo mà người đọc nhìn thấu được cảm xúc, tâm trạng cũng như sự hồi sinh mạnh mẽ, mãnh liệt ở Mị. Tiếng sáo là biểu tượng cho thế giới tự do, là hiện thân của tuổi trẻ, tài năng và ký ức đẹp tươi của Mị. Bởi thể chính tiếng sáo là âm thanh hay nhất, lay động nhất tới sự hồi sinh của nhân vật. Sức mạnh tiếng sáo và giấc mơ tự do đã khiến Mị quên đi thực tại ê chề. Đúng như Tô Hoài từng nhận định: “Tiếng sáo kia quá tha thiết, quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, nó là biểu tượng của niềm khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao khát tự do nữa”. Tâm hồn Mị như đang thăng hoa cùng tiếng sáo gọi bạn tình. Thế giới nội tâm ấy thật đẹp biết bao!    Bây giờ Mị cũng không nói

Bây giờ Mị cũng không nói
Bây giờ Mị cũng không nói

Nhưng cũng chính tiếng sáo là tác nhân khắc sâu thêm bi kịch của Mị. Tiếng sáo nhập vào hồn Mị khiến Mị quên đi thực tại đau buồn nhưng cũng chính nó lại đánh thức thực tại của Mị. Nghe tiếng sáo, “Mị vùng bước đi”. Thực chất hành động này là sự tác động của tiếng sáo. Sức níu gọi của tiếng sáo, men tình từ tiếng sáo tha thiết quá. Nó đã làm Mị quên đi thực tại ê chề, tủi nhục của bản thân. Chi tiết “Mị vùng bước đi” đã minh chứng được sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị. Đó không còn là cô Mị vẫn “cúi mặt mặt buồn rười rượi” nữa mà đã là một cô Mị giàu năng lượng sống. Bốn chữ “Mị vùng bước đi” thật ngắn gọn nhưng hàm chứa trong đó là sức phản kháng, sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Câu văn tinh tế sâu sắc, gợi ra biết bao suy tưởng về nhân vật. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã “vùng bước đi” thật. Mị không ý thức được hoàn cảnh thực tại, bởi Mị là kẻ mộng du đang lang thang với giấc mơ tự do của mình. Chỉ khi “tay chân đau không cựa được”. Mị mới thoát khỏi cơn mộng du hạnh phúc của mình Tô Hoài đã khéo léo lồng vào chi tiết âm thanh của tiếng chân ngựa. Lúc này, cơn đau thể xác đã đánh thức Mị. Tiếng sáo vụt biến tan, chỉ còn tiếng chân ngựa. Tiếng chân ngựa là âm thanh của thực tại, tiếng sáo là hiện thân của giấc mơ. Tiếng chân ngựa đã đập vỡ giấc mơ và khát vọng tự do của Mị, kéo Mị từ thiên đường trở lại địa ngục. Thế giới giấc mộng không còn, thế giới của thiên đường cũng biến mất, chỉ tiếng “gãi chân, nhai cỏ” là có thật. Âm thanh tiếng chân ngựa đánh thức Mị, thực tại phũ phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng, đập vỡ cả giấc mơ của Mị, kéo Mị từ thiên đường trở về địa ngục. Nỗi đau thể xác ngay lập tức chuyển hoá thành nỗi đau tinh thần vì Mị chợt nhận ra: “Mình không bằng con ngựa”.   Bây giờ Mị cũng không nói

Có thể nói, bi kịch của cuộc sống hiện tại không ngăn được khát vọng tự do mãnh liệt như ngọn lửa đang bùng cháy trong Mị. Đêm tình mùa xuân đi qua, Mị vẫn trở về với ô cửa lỗ vuông, với tảng đá cạnh tàu ngựa, vẫn những công việc đầu năm, giữa năm, cuối mùa vẽ ra trước mắt. Nhưng tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân giống như một tia lửa nhỏ mà “một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn). Tia lửa ấy sẽ bùng cháy vào cái đêm cởi trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này.       Bây giờ Mị cũng không nói

Nghệ thuật: Bây giờ Mị cũng không nói

Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc. Trần thuật hấp dẫn, giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo, đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ. Cách dựng cảnh, tạo không khí, miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi chân thực, sống động. Giọng văn chậm buồn, day dứt, trăn trở, yêu thương.    Bây giờ Mị cũng không nói

Bây giờ Mị cũng không nói
Bây giờ Mị cũng không nói

Giá trị nhân đạo: Bây giờ Mị cũng không nói

Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã bộc lộ giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua việc khắc hoạ cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị, nhà văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời qua sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (và sau đó là sức sống, sức phản kháng quyết liệt trong đêm cởi trói cho A Phủ), nhà văn cũng khẳng định và lên tiếng bênh vực cho những khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Qua đó nhà văn cũng đã góp phần giải phóng số phận nhân vật, đây chính là điểm mới trong giá trị nhân đạo của các tác phẩm sau năm 1945.      Bây giờ Mị cũng không nói

Có thể nói, đoạn văn trên tuy ngắn gọn nhưng cũng đã thể hiện rất thành công giá trị nhân đạo của tác phẩm. Sê-khốp từng nói “Mỗi nhà văn là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Quả đúng như vậy, nhà văn Tô Hoài, bằng tình yêu thương, tấm lòng trân trọng của mình dành cho người lao động Tây Bắc đã để lại giá trị nhân đạo sâu sắc trong “Vợ chồng A Phủ”. Đoạn trích nói riêng và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nói chung để lại giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đồng cảm, cảm thông cho số phận nhân vật, góp tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi đã áp bức, bóc lột nhân dân lao động Tây Bắc, đẩy họ vào số phận trâu ngựa. Qua việc khắc họa nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng ngợi ca phẩm chất cao quý của con người lao động Tây Bắc, đồng thời bày tỏ niềm tin mãnh liệt vào sức vươn dậy của con người, dù trong hoàn cảnh đọa đày, sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt trong họ cũng không hề mất đi mà sẽ càng trở nên mãnh liệt. Chính Tô Hoài cũng từng nhận xét về Mị: “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã. Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng. mãnh liệt”. Cuối cùng nhà văn đã góp phần giải phóng số phận nhân vật trong một kết thúc có hậu. Đây chính là nét mới trong giá trị nhân đạo sau năm 1945.     Bây giờ Mị cũng không nói

Bây giờ Mị cũng không nói
Bây giờ Mị cũng không nói

KẾT BÀI: Bây giờ Mị cũng không nói

“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là truyện ngắn có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc khi lên án thể lực cường quyền, thần quyền lạc hậu, bạo làn ở vùng núi Tây Bắc đã đẩy con người vô tội vào tận cùng của đau khổ, đọa đày. Đồng thời, qua nhân vật Mị nhà văn đã bày tỏ tiếng nói cảm thông, trân trọng đối với người lao động nghèo. Nhà văn đồng cảm với số phận đau khổ, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc đồng thời ca ngợi, trận trọng sức sống tiềm tàng bên trong những con người khốn khổ ấy. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo lớn lao của tác phẩm. Qua vẻ đẹp tâm hồn con người lao động Tây Bắc, mỗi chúng ta phải tự nhắc nhở mình phải biết sống, biết yêu quý, biết trận trọng con người lao động nói chung, biết đấu tranh bảo vệ công lý, lẽ phải, đấu tranh với những bất công để bảo vệ hai chữ “Con Người” cao quý thiêng liêng. 

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

   Bây giờ Mị cũng không nói

(Nguồn: Tham khảo) 

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *