Đề: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

“Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen” như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ. ”

(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục)

Cảm nhận đoạn trích trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn về cách xây dựng hình tượng sông Đà. 

Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần 
Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

MỞ BÀI: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Lê-ô-nít Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung”. Quả thật vậy, một tác phẩm văn học chân chính là sự sáng tạo, độc đáo của tác giả về nội dung lẫn hình thức. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm như thế. Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân khi viết về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm đam mê kiếm tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã viết về sông Đà bằng tất cả yêu thương và những rung cảm tinh tế. Tình cảm ấy vương vấn trên đầu ngọn bút rồi tỏa ra núi sông, cây cỏ trên một vùng non nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng. Đoạn văn: “Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, […] rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ” chính là một trong những bức tranh ở dòng sông Đà được Nguyễn Tuân dệt nên bằng thảm tranh đẹp về lụa ngôn từ.

Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần 
Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần

THÂN BÀI: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Khái quát tác giả, tác phẩm: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Nguyễn Tuân là tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau năm 1945. Ông là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính sáng tạo độc đáo. Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hoá thẩm mỹ, thường miêu tả con người ở vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại, nhưng đặc biệt thành công ở thể tùy bút.

“Người lái đò sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Tùy bút này sau đó được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960. Đoạn trích dẫn ở trên nằm ở phần đầu của tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”.

Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần 
Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần

Triển khai nội dung phân tích: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Mở đầu đoạn văn là hình ảnh Sông Đà được chiêm ngưỡng từ trên cao xuống. Ở điểm nhìn ấy, sông Đà hiện lên với đường nét, hình khối, vừa hùng vĩ tráng lệ, vừa thơ mộng trữ tình. Không bằng lòng với những gì chung chung, đại khái, Nguyễn Tuân đã dành nhiều công sức để tìm hiểu con sông Đà. Không chỉ nhìn dòng sông ở góc gần, ông còn quan sát con sông từ trên tầm cao của máy bay. Cách mở rộng điểm nhìn ấy đã mang đến cho người đọc những cảm nhận trọn vẹn hơn về dòng sông Tây Bắc. Ông đã “không ngần ngại dốc hết kho từ vựng phong phú để con chữ tuôn ra nơi đầu ngọn bút, chữ nọ gọi chữ kia, ào ạt chảy về trang viết, thổi linh hồn cho tạo vật.” (Nguyễn Thùy)

Nhà văn miêu tả: “Từ trên tàu bay mà nhìn xuống sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò sông Đà”. Với nghệ thuật so sánh, nhà văn nhìn con sông Tây Bắc giống như sợi dây thừng ngoằn ngoèo. Từ láy “ngoằn ngoèo” trong so sánh liên tưởng đến “cái dây thừng ngoằn ngoèo” rất giàu sức gợi. Có thể hình dung do địa hình Tây Bắc vô cùng hiểm trở nên sông Đà không chảy theo một đường thẳng mà nó quanh co, uốn lượn, gấp khúc, vòng vèo, chùng chình giữa những rừng, những núi, những đồi tạo thành hình khối, đường nét. Dòng sông từ góc nhìn ấy vừa hùng vĩ mà cũng vừa gợi cảm, thơ mộng. Dáng hình ấy thật mềm mại và duyên dáng biết bao, khiến nhà văn như có chút ngỡ ngàng: đây có phải là con sông Đà suốt đời “làm mình làm mẩy” với con người Tây Bắc, đã “giận dỗi vô tội vạ” ở trên thượng nguồn? 

Sông Đà trong cái nhìn qua mây trời còn hiện ra với một phát hiện thú vị: “Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “núi cao sông hãy còn dài – năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Phép điệp “không ai trong tàu bay nghĩ rằng”, rồi “cũng không ai nghĩ rằng” như tiếng reo vui, tự hào của tác giả khi khám phá ra một góc độ khác về con sông Tây Bắc. Không thể ngờ được rằng dòng sông Đà chính là dòng sông trong truyền thuyết “Sơn Tinh Thủy đi Tinh” nổi tiếng của người Việt. Sự hiểu biết ấy đã minh chứng được “Trang văn Nguyễn Tuân vì thế không chỉ cuồn cuộn dòng thác của sông 10 chữ, mà còn ngồn ngộn kiến thức của sông đời.” (Nguyễn Thùy) Ta bắt gặp nơi đây không chỉ là những kiến thức của lịch sử, mà còn là kiến thức của địa lí, văn hóa, hội họa, điện ảnh, âm nhạc… Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Cũng với cái nhìn tha thiết, Nguyễn Tuân còn vẩy bút mà điểm tô thêm một nét yêu kiều: “Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc từ bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Câu văn kéo dài ra, âm điệu miên man, dạt dào như cái bao la của trời đất cõi này. Hai chữ “hình như” mang hơi thở của một câu hỏi tu từ gợi ra cảm giác bâng khuâng thương nhớ. Cụm từ “đại dương đá” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ. “Đại dương” gợi lên sự bao la, bát ngát, rộng lớn; còn “đại dương đá” là cách nói phóng đại đá ở đây nhiều, miên man, trùng điệp, hùng vĩ, tráng lệ. Từ láy “lờ lờ” gợi tả hình ảnh mây trôi lững lờ, thong thả. Trong cái nhìn từ trên cao ấy, bức tranh thiên nhiên trong cảm nhận của tác giả là những nét đẹp “quen thuộc” của Tổ quốc bao la, một vẻ đẹp hài hòa được cộng hưởng từ các đường nét mềm mại của dòng sông “tãi ra”, sự nhấp nhô của đại dương đá, dòng sông bồng bềnh trong mây trời, lúc ẩn, lúc hiện dưới chân mình. Đó quả thực là bức tranh đẹp của thiên nhiên sông Đà phản chiếu qua một tâm hồn tài hoa, trí tuệ. Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Trong cái nhìn nhân cách hóa, sông Đà đáng yêu và trữ tình thơ mộng hơn nữa trong sự liên tưởng tới người con gái đẹp với “áng tóc trữ tình”. Ở những dòng sông đẹp, người ta thường liên tưởng tới người con gái. Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương thượng nguồn giống như cô gái Di Gan “phóng khoáng và man dại”, qua cánh đồng Châu Hóa là “người gái đẹp ngủ mơ màng”, đến kinh thành Huế là cô gái thủy chung, ra khỏi Huế là “nàng Kiều chỉ tình trở lại tìm Kim Trọng”; thì với sông Đà, Nguyễn Tuân cũng có những liên tưởng đẹp. Ở điểm nhìn từ trên cao tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người con gái kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm. Lời văn của Nguyễn bây giờ cũng bềnh bồng với bầu trời mùa xuân, mùa thu, nơi tác giả từ trên tàu bay mà nhìn xuống “từng nét sống tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Để từ đó, bậc du tử tài hoa đã vẩy bút vẽ ra cả một bức tranh thuỷ mặc chỉ trong một câu văn, cái câu sẽ còn vương vấn mãi trong hồn bao bạn đọc: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Có thể nói, đây là một câu văn tuyệt bút, ghi dấu ấn tài hoa của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật tả cảnh, từ cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, đến âm hưởng, giọng điệu. Nhịp điệu ngân nga, trầm bổng của câu văn góp phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn dài chỉ có một dấu phẩy duy nhất, kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài” đem đến ấn tượng về sự liền mạch, bất tận, miên man. Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” với “tuôn” – động từ mạnh, “dài” – tính từ; tác giả như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh, nhân cách hóa, Sông Đà “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của con sông. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Nguyên cả cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất, kiệt tác của thiên nhiên Tây Bắc. Cảnh vì thế mà vừa thực lại vừa mộng. Cách so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình đã đem đến cho sông Đà nét đằm thắm, duyên dáng đầy nữ tính, giàu sức sống mà không hề làm mất đi sự hùng vĩ của nó. Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của người con gái kiều diễm còn được tác giả nhấn mạnh qua phép nhân hóa “đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Hai chữ “ẩn hiện” gợi cảnh tượng huyền ảo, vừa thực vừa mộng. Động từ “bung nở”, từ láy “cuồn cuộn” gợi tả sức sống hoang dại, mãnh liệt của dòng sông. Từ trên cao nhìn xuống, có những quãng hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân. Có cảm giác, Nguyên Tuân vừa thưởng cảnh, vừa họa trên trang sách bức tranh tuyệt mĩ về dòng sông Đà giữa bao la cây cỏ, bát ngát núi rừng. Dòng sông không “thẳng đơ trên trang giấy” mà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng huyền ảo của mây trời, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, cái ấm áp, gần gũi của làn “khói núi Mèo đốt nương xuân”. Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Nhà văn Nguyễn Khải từng nhận định rằng: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đo trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật”. Xét trên bình diện ấy thì những câu văn lai láng chất thơ trên chính là tình cảm của Nguyễn Tuân đã “rung lên”, đã “ngân nga”, vang vọng khắp bao la Tây Bắc đẹp như lời ca “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” (Nhà thơ Ba Lan – W. Broniewski) Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Từ góc cao, sông Đà trữ tình và đáng yêu hơn nữa bởi sắc nước thay đổi biến ảo theo mùa, đó là vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Đà. Mỗi mùa, sắc nước sông Đà có những vẻ đẹp riêng khiến cho nhà văn không khỏi thốt lên: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Câu văn có hai mươi tám chữ nhưng đã có tới hai mươi ba thanh bằng, những thanh bằng ấy tạo nên sự êm ái, nhẹ nhàng, mê đắm. Từ láy “say sưa” kết hợp phép điệp động từ “nhìn” tả cảm giác chìm đắm, ngẩn ngơ, mê mải của tác giả, đó là cái nhìn đắm đuối, nhìn mà không chớp mắt. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành, không có sự pha tạp. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời dạt dào sức sống. So sánh với màu xanh canh hến của nước sông Gâm và sông Lô, nhà văn như khẳng định: màu xanh ngọc bích của sông Đà là vẻ đẹp riêng, hiếm có, hiếm thấy. Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Mùa thu cũng khiến nước sông Đà thêm ảo diệu: “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.” Câu văn chia thành hai vế với hai hình ảnh khác nhau. Vế thứ nhất có từ láy “lừ lừ” và hình ảnh “chín đỏ”, so sánh “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” mang đến hình ảnh sắc màu đỏ ửng hồng của độ đầu thu; vừa gợi tả dòng chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông mang nặng phù sa thượng nguồn, vừa thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa bao hiểm nguy, cuồng loạn của một dòng sông vẫn “năm năm báo oán đời đời đánh ghen” với con người. Vế thứ hai cũng sử dụng từ láy “lừ lừ” nhưng sắc màu đậm hơn qua nhân hóa “đỏ giận dữ”, “bất mãn”, “bực bội”. Đó là màu đỏ của phù sa vào độ giữa thu khi Tây Bắc mưa nhiều. Đó cũng là hình ảnh gắn liền với tính cách thất thường, khi dịu dàng đằm thắm, lúc bản tính gắt gỏng. Như vậy, trong cái hùng vĩ dữ dội, dòng sông vẫn có nét thơ mộng trữ tình, và trong cái thơ mộng trữ tình, nó vẫn ẩn chứa vẻ dữ dằn, nguy hiểm. Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Đoạn trích khép lại bằng lời khẳng định đầy tự hào:“Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ lai chữ”. Với một tình yêu dạt dào và niềm tự hào mãnh liệt về con sông Tây Bắc, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sông có màu đen như thực dân Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo” – Sông đen. Từ ngữ “đè ngửa”, “láo lếu” thể hiện thái độ căm phẫn của nhà văn. Sự phủ định ấy đã khẳng định vẻ đẹp trong sáng của dòng sông và cũng là niềm tự hào, tự tôn về chủ quyền quê hương, đất nước. Như vậy, lên Tây Bắc, Nguyễn Tuân không chỉ thỏa thích thú “xê dịch” mà còn là để cất lên tình yêu của mình với quê hương xứ sở. Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

 Nghệ thuật: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Thành công của đoạn trích nói riêng và tùy bút “Người lái đò Sông Đà” nói chung là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Nguyễn Tuân sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo: Trần thuật hấp dẫn, tỉ mỉ, công phu. Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, liệt kê, điệp từ, điệp ngữ, bút pháp nhân cách hóa, miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao, kết hợp phong phú yếu tố ngôn ngữ ở nhiều lĩnh vực. Giọng văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của dòng sông Đà hung bạo và trữ tình. 

Nhận xét: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Có thể nói, đoạn văn trên đã thể hiện rất thành công cách xây dựng hình tượng sông Đà. Quan sát sông Đà ở nhiều góc độ (góc gần, cận cảnh, từ trên cao) để mang đến hình ảnh con sông chân thực và rõ nét nhất. Ngòi bút miêu tả kết hợp ngôn ngữ giàu có, tinh tế hiện đại, giàu cảm xúc, tính biểu cảm cao, giàu tính tạo hình, rất sắc sảo và đậm chất tài hoa uyên bác. Sử dụng nhiều biện pháp tu từ nhân hóa, liệt kê, tương phản đối lập, ẩn dụ… Lối so sánh liên tưởng độc đáo thú vị khiến sông Đà không chỉ như một dòng chảy tự nhiên mà còn như một con người có vẻ đẹp tâm hồn, tính cách phong phú, một sinh thể sống động, bởi vậy nhà văn luôn viết hoa hai chữ Sông Đà. Vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau: điện ảnh (góc nhìn, cách nhìn), thơ ca (áng tóc trữ tình, bụng nở, hoa ban, hoa gạo…); hội họa (xanh ngọc bích, xanh canh hến, lừ lừ chín đỏ…), khi miêu tả tính cách hung bạo, hùng vĩ, nhà văn sử dụng ngôn ngữ bóng đá, thể thao, quân sự, võ thuật…Cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện về dòng sông cho thấy vốn hiểu biết phong phú của tác giả về địa lý, lịch sử, văn hóa, nhiếp ảnh, hội họa, âm nhạc… qua đó thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng, phong cách nghệ thuật uyên bác, tài hoa.

Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần 
Tôi có bay tạt ngang qua sông Đà mấy lần

KẾT BÀI: Tôi có bay tạt ngang qua sông đà mấy lần 

Có thể nói đoạn trích nói riêng và tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” nói chung là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân. Nói như nhà văn Anh Đức: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”. Từ bậc thầy ngôn ngữ ấy, vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cứ thế mà hiện ra tươi tắn, duyên dáng trong cái bao la của cõi trời, của sự trùng điệp núi non, hoa cỏ. Qua đó, nhà văn bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông gấm vóc Việt Nam.

DANH SÁCH các bài VĂN MẪU 12

(Nguồn: Tham khảo) 

lediem.net

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *